Chào Mừng Các Bạn Đã Ghé Thăm . . . . .... K3CTCT

Dịch từ Anh Ngử tới các ngôn ngử khác

Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2011

Ngày này.Năm Ấy


Ngày này.Năm Ấy
Một độc giả, đọc bài “ Ngày 30 tháng tư năm 1975 “ của tôi, đã viết thư hỏi về trường hợp riêng tôi, những ngày cuối cùng của cuộc chiến, trong khi bao nhiêu người tìm cách rời khỏi đất nước thì tôi, lúc ấy đang có mặt ở Sài Gòn, lại cứ nhất quyết tìm mọi cách để trở về đơn vị.
Chưa hết, kể cả khi tướng Dương Văn Minh, vị Tổng Tư Lệnh cuối cùng đã ra lệnh cho các quân nhân QLVNCH hãy buông súng , bàn giao cho những người phía bên kia, bản thân tôi lúc ấy đã cởi bỏ bộ quân phục thay vào bằng bộ đồ dân sự xin được từ một nhà dân gần đó, vẫn cùng với một sĩ quan phục vụ ở Ty ANQĐ Tiểu khu Long an, tìm đường “ trở về đơn vị “, chứ không phải trở về nhà.
Đơn vị nào ở cái thời điểm giờ thứ 25 ấy mà về ?
Một câu hỏi , thực ra, không có gì là khó để trả lời.
Nhưng câu trả lời chân thật nhất của tôi liệu có làm tổn thương đến những người may mắn thóat đi được vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến ?
Từ nhiều năm nay, trong những bài viết, tôi chỉ nhắc đến sự kiện, về hình ảnh không hề phai nhòa trong trí tưởng tôi vào cái ngày tháng Tư định mệnh ấy. Tôi không muốn đào sâu hơn nữa. Có lúc tôi nghĩ việc làm ấy chẳng ích gì, chỉ khiến lòng mình nặng trĩu thêm mà thôi. Vả lại, đã mấy chục năm trôi qua, bao nhiêu nước chảy dưới cầu, nhắc lại cũng chỉ như kể một truyện cổ tích không vui.
Trong bài “ Ngày 30 tháng 4 năm 1975 của tôi “, tôi viết :
“ . . . Trước đó một tuần, khi con đường Quốc lộ 4 nối liền Sài Gòn và những tỉnh miền Tây còn chưa bị Việt Cộng chặt đứt ở khúc Bến Lức, tôi đã từ đơn vị Tiểu Khu Long An “ dù “ về Sài Gòn thăm nàng. Suốt gần một tuần ở Sài Gòn, tôi không hề có ý tưởng đi tìm nơi chạy thóat qua Mỹ, dù lúc đó ở Sài Gòn, đó là chuyện thường được nhắc tới nơi những quán cà phê. Tôi chỉ nôn nóng tìm cách trở lại đơn vị. Để làm gì, tôi không biết. Nhưng lúc ấy, giữa không khí hỏang lọan của một Sài Gòn đợi chết, mặc dù ở bên cạnh là người tình tấm mẳng của 3 năm Đà Lạt và 2 năm đóng hụi tháng cho các hãng xe đò chạy đường Sàigòn-Đà lạt , tôi vẫn chỉ cảm thấy yên lòng khi được ở đơn vị sống chết cùng với những người bạn, người lính của mình . . .”
Những hàng chữ nói trên rất thật.
Từ đơn vị ở Tiểu Khu Long An, cách Sài Gòn 40 cây số về phía Nam với khỏang 1 giờ xe đò, tôi “dù” về thành phố không phải để tìm cách “ chạy trốn quân Cộng sản “ như nhiều sĩ quan cao cấp hơn tôi đã làm từ trước đó hàng mấy tuần lễ. Đơn giản chỉ là nhớ người yêu mà thôi . Trước đó, khi nàng còn ở Đà lạt, từ Long An tôi đã dzọt lên Đà Lạt thăm nàng hàng tháng . Đi sáng thứ bảy, chiều đến nơi, rủ nàng đi uống cà phê, ăn phở để rồi sáng hôm sau, chủ nhật, lúc 5 giờ sáng tôi và nàng lại ôm nhau ngồi co ro ở bến xe uống cà phê bí tất chờ chuyến xe đò tài nhất về lại Sài Gòn. Và ngay khi xuống xe đò Sài Gòn- Đà Lạt tại Bùng binh Ngã Bẩy tôi lại nhẩy vội lên xe lam ra xa cảng miền Tây đáp chuyến xe đò cuối cùng về Long An.
Tuần lễ cuối cùng trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, tuy có mặt ở Sài Gòn, ở bên cạnh nàng, nhưng tâm tư tôi vẫn một nửa hướng về đơn vị. Nơi đó, có 3 người bạn đồng khóa 3 CTCT Đà Lạt thân nhau như anh em ruột thịt. Nơi đó có những chiến hữu quen biết khi tôi đáo nhậm đơn vị. Hai năm làm việc bên nhau, tuy không phải xông pha lửa đạn như những đơn vị tác chiến để chia sẻ với nhau sự sống và sự chết, nhưng chúng tôi có cùng một lý tưởng để phục vụ. Đọan đường Sài Gòn về miền Tây ( Quốc lộ 4) bị Cộng quân đặt một chốt chặn khúc gần chân cầu Bến Lức ngay hôm sau khi tôi có mặt ở Sài Gòn. Đó là lý do duy nhất khiến tôi có mặt trên Quốc lộ 4, phía bên này chốt chặn hướng về Sài Gòn. Nếu không, tôi đã có mặt ở đơn vị vào giây phút cuối cùng của miền Nam, tham gia vào “đòan lính VNCH chân đất, không nón không vũ khí, tay úp lên đầu, đi lũ lượt trên quốc lộ.”
Thành thực mà nói, những ngày ấy ở Sài Gòn, tuy có nghe nói về những cách khả thi để thóat khỏi đất nước trước khi quân Bắc Việt tiến vào, nhưng tôi không tha thiết lắm đến việc vượt thóat. Tôi và nàng có bàn với nhau về việc đó, nhưng cả hai đều bế tắc ở đọan “ còn gia đình mình thì sao ? “. Nàng còn mẹ, còn anh em. Tôi cũng còn các em tôi phải lo lắng chăm sóc. Nếu tôi đi rồi thì chúng sẽ ra sao ? Chúng tôi không nghĩ đến mình. Vì lúc ấy chúng tôi đang ở bên nhau. Chỉ nghĩ đến người thân. Phần tôi, còn nghĩ đến những anh em của mình ở đơn vị.
Thời gian này, ngày nào tôi cũng thăm dò xem đọan Quốc lộ 4 bị chặn ấy đã giải tỏa được chưa để tôi trở về đơn vị. Đến sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, bồn chồn không yên vì tin tức chiến sự ngày càng bi đát, tôi quyết định lên xe đò miền Tây trực chỉ hướng Bến Lức, dù đã được cho biết xe đò không thể đi xa hơn Bến Lức. Bất chấp nước mắt ngắn dài của nàng, tôi khư khư giữ vững ý định của mình. Nàng hỏi tôi anh về đơn vị thì sẽ giải quyết được gì ? Tôi ngọng miệng không biết trả lời thế nào để thuyết phục đựợc nàng bằng lòng để tôi đi. Tôi chỉ có thể năn nỉ nàng hãy để tôi về với các bạn của mình, vì giây phút này đây , lúc mà tương lai cuộc chiến , tương lai của chính bản thân tôi chưa biết như thế nào, chúng tôi cần ở bên nhau để bàn tính điều đúng nhất cần làm. Biết không thể giữ được tôi, nàng lau nước mắt tiễn tôi rời Sài Gòn.
Thế là tôi có ngày 30 tháng 4 năm 1975 của tôi không giống ai.
Trong cái ngày 30 tháng 4 năm 1975 ấy, trở về đơn vị không còn mang ý nghĩa trở về một trại lính, một văn phòng làm việc, một nhiệm sở, mà là trở về với đồng đội .
Nhiều năm sau, trong những trại tù, đêm trằn trọc vì đói, vì rét, vì nỗi nhớ nhà quay quắt, tôi lại nghĩ đến cái tuần lễ cuối cùng định mệnh ấy của đời mình. Tôi vẫn tin rằng mình đã có lựa chọn đúng. Trong trại tù, tôi đã gặp nhiều người ra đi đến được đảo Guam rồi, nhưng nỗi nhớ nhà, sự lo lắng cho vợ con còn kẹt lại đã khiến họ cương quyết đòi trở về cho bằng được trên chiếc tàu Việt Nam Thương Tín tháng 9 năm 1975 . Chẳng may, chính quyền Cộng sản tàn ác bất nhân, đã không cho họ được gặp thân nhân, còn đầy họ vào những trại cải tạo xa nhất ở miền Bắc và ngày về của họ còn thăm thẳm hơn cả chúng tôi. Đối với chúng tôi, tình cảm gia đình luôn là thứ thiêng liêng nhất. Vì gia đình, một số người nhất quyết không chịu tìm sự bình an riêng cho thân mình. Vì gia đình, nhiều người tuy đã đến đựợc thiên đường, nhưng vẫn quay trở lại để được sống chết cùng với cha mẹ vợ con.
Với tôi, sau gần 9 năm dài đăng đẵng trong những nhà tù từ Nam chí Bắc, khi tôi trở về thì nàng đã không còn đủ sức chờ đợi tôi được nữa. Tôi không hề trách nàng. Mỗi người chỉ có một thời tuổi trẻ. Tôi, vì tai trời ách nước, đã phí hòai mất 9 năm đẹp nhất đời mình trong tù. Đó là định mệnh của riêng tôi, của rất nhiều những bạn bè tôi. Nhưng không vì thế mà phải khiến những người khác liên lụy, trong đó có nàng, “ người tình tấm mẳng của 3 năm quân trường và 2 năm đóng hụi tháng cho các hãng xe đò chạy đường Sàigòn-Đà lạt “.
Đã có lúc tôi nghĩ đến chữ “ Nếu “.
Nếu tuần lễ cuối cùng ấy có mặt ở Sài Gòn, tôi và nàng cương quyết tìm đường vượt thóat, và cơ may là chúng tôi thóat được. Hẳn cuộc tình 5 năm không kết thúc tội nghiệp như nó đã kết thúc. Và gia đình riêng của hai chúng tôi, có thể sẽ được chúng tôi lo lắng một cách cụ thể hơn về mặt vật chất như nhiều người khác may mắn thóat được sớm đã lo cho gia đình họ.
Nhưng, lúc ấy đâu có ai biết được ngày mai sẽ ra sao. Chúng tôi chỉ quyết định theo sự thôi thúc của lương tâm mình. Cái đúng với người này, có thể là cái sai với người khác. Những người từ đảo Guam về lại Việt Nam trên chuyến tàu Việt Nam Thương Tín tháng 9 năm 1975 mà tôi được biết không có ai hối tiếc về quyết định của mình, dù có người trải gần 13 năm trong những trại cải tạo. Và khi họ được thả về, vợ con họ đã tìm đường vượt biên. Gia đình họ chỉ đòan tụ sau khi có chương trình HO, tức là gần 20 năm sau.
Tất cả sự đau khổ, chia ly, những nghịch cảnh xót xa xẩy ra trong một đọan đời khó quên của đất nước, chẳng qua chỉ là định mệnh mà dân tộc phải gánh chịu. Mỗi người, trong đọan đời ấy, có số phận riêng của mình. Ngày nay, mấy mươi năm sau, nhìn lại, dù nỗi đau có lớn thế nào, cũng chỉ là quá khứ.
Có lẽ chúng ta nên cố gắng quên quá khứ đi thì tốt hơn chăng ?

T.Vấn
30 tháng 4 năm 2011
T.Vấn(c)2011

__________________________________

Phụ Lục :

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 của tôi
. . . Đó là một ngày ảm đạm , ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975. Giữa dòng người hốt hỏang trên Quốc Lộ 4 nối liền thành phố Sài Gòn và các tỉnh miền Tây Việt Nam, tôi đã cởi bộ quân phục mặc trên người, đủ bình tĩnh để xếp chúng lại thật ngay ngắn phẳng phiu, cẩn thận cột giây đôi giầy trận theo đúng quy cách quân trường, rồi đặt chúng nằm cạnh bộ quân phục . Tôi còn nhớ cái bóng của mình đã đứng thật nghiêm, bàn tay trái nắm chặt để ngón cái chạy xuôi theo đùi chân trái, tay phải đưa lên ngang tầm mắt, thật dõng dạc chào một lần cuối những thứ tôi vừa cởi bỏ trên người ở chân cầu Bến Lức khi giọt nắng cuối cùng vừa biến mất phía sau nhà lồng chợ quận.
Trước đó một tuần, khi con đường Quốc lộ 4 nối liền Sài Gòn và những tỉnh miền Tây còn chưa bị Việt Cộng chặt đứt ở khúc Bến Lức, tôi đã từ đơn vị Tiểu Khu Long An “ dù “ về Sài Gòn thăm nàng. Suốt gần một tuần ở Sài Gòn, tôi không hề có ý tưởng đi tìm nơi chạy thóat qua Mỹ, dù lúc đó ở Sài Gòn, đó là chuyện thường được nhắc tới nơi những quán cà phê. Tôi chỉ nôn nóng tìm cách trở lại đơn vị. Để làm gì, tôi không biết. Nhưng lúc ấy, giữa không khí hỏang lọan của một Sài Gòn đợi chết, mặc dù ở bên cạnh là người tình tấm mẳng của 3 năm Đà Lạt và 2 năm đóng hụi tháng cho các hãng xe đò chạy đường Sàigòn-Đà lạt , tôi vẫn chỉ cảm thấy yên lòng khi được ở đơn vị sống chết cùng với những người bạn, người lính của mình.
Ngày thứ Ba 29 tháng 4 năm 1975, bất chấp sự ngăn cản của nàng, tôi lên xe đò Sài Gòn –Bến Lức tại xa cảng miền Tây. Đường số 4 chưa thông, nên không có xe đò nào vượt quá Bến Lức. Đến Bến Lức, tôi cảm thấy yên tâm hơn, vì mình đã ở gần đơn vị một nửa đọan đường. Đêm hôm ấy, tôi ngủ tạm tại nhà một nhân viên thuộc quyền. Cô được tôi bằng lòng cho về nhà kể từ khi doanh trại bị pháo kích thường xuyên. Sáng hôm sau, tôi vội vã chạy ra ngòai lộ để mong có tin tức gì về việc giải tỏa đọan đường bị tắc nghẽn gần tuần nay. Bên này cầu Bến Lức vẫn đông nghẹt người từ Sài Gòn tìm cách đổ về các tỉnh miền Tây.
Lúc 9 giờ sáng, có một chiếc trực thăng đáp xuống ngay bãi đất trống trước quận đường Bến Lức. Tôi thấy Đại tá Lê Văn Năm, cựu tỉnh trưởng Long An và đương nhiệm Trung đòan Trưởng một trung đòan của Sư Đòan 9 Bộ Binh bước xuống từ trực thăng. Một chiếc xe jeep của chi khu Bến Lức ra đón ông đi về hướng Bộ Chỉ Huy Hải quân Bến Lức. Từ đó, tôi không thấy bóng ông đâu nữa. Chiếc trực thăng vẫn còn nằm đó cho đến khi nào tôi không biết.

 Khỏang 10 giờ rưỡi sáng, tôi nghe mọi người xôn xao túm tụm quanh chiếc máy phát thanh của một quán cà phê cạnh quận đường. Lệnh của vị Tổng thống cuối cùng của VNCH cho mọi quân nhân buông súng, chuẩn bị bàn giao cho những người bên kia . Mọi người nhìn nhau, không ai nói một câu . Tôi không bị xúc động nhiều lắm, vì đó là điều tôi đang mong đợi , sau một tuần lễ quan sát những gì xẩy ra ở Sài Gòn.
Lặng lẽ, tôi đi vào khu nhà dân bên kia đường, hỏi xin một bộ quần áo cũ. Mọi người nhanh nhẹn và sốt sắng tìm giúp tôi ngay thứ tôi đang cần. Bộ quân phục với chiếc nón có gắn cặp lon mới tinh, tôi xếp ngay ngắn và để lại ở bên này chân cầu Bến Lức.
Giữa đám người hỗn lọan, tôi gặp một vị sĩ quan trẻ làm việc ở TY An Ninh Quân Đội tỉnh. Anh lái chiếc xe Vespa Sprint. Gặp nhau, chúng tôi mừng như bạn quen lâu ngày. Không cần bàn cãi lâu, chúng tôi cùng quyết định “ quay trở về đơn vị Long An “, vì lúc đó đòan người đang ùn ùn kéo nhau qua cầu, có nghĩa là đọan chốt của Việt Cộng phía bên kia cầu không còn nữa. Hòa Bình rồi, còn súng đạn đâu nữa mà sợ.
Chúng tôi qua cầu Bến Lức, phóng bạt mạng về hướng Long An. Hai bên đường, xác lính ở cả hai bên nằm la liệt. Cả tuần lễ, mấy tiểu đòan địa phương quân tiểu khu được lệnh giải tỏa khu bị chốt. Về gần đến Long An, chúng tôi thấy từng đòan lính VNCH chân đất, không nón không vũ khí, tay úp lên đầu, đi lũ lượt trên quốc lộ. Rải rác bên ngòai là mấy anh người lính bộ đội mang súng AK đi canh chừng. Họ đi đâu, chúng tôi không biết. Ngang qua chỗ rẽ vào thị xã, nhìn về phía doanh trại thấy người lớn trẻ nhỏ khiêng vác đồ đạc chạy tới chạy lui. Tôi còn một tủ sách và nàng thì còn một giỏ quần áo để quên khi đến thăm tôi hôm đầu tháng 4. Đến lúc này, chúng tôi hiểu rằng mình thực sự không còn “ đơn vị “ để quay về. Vậy thì điều duy nhất nên làm lúc này là về nhà.
Trời đã chiều. Đòan người vẫn ùn ùn đi về hai hướng ngược chiều nhau. Chúng tôi về tới Sài Gòn thì trời đã xẩm tối. Anh bạn Ty ANQĐ, sốt ruột về nhà, đã bỏ tôi lại trên ngõ Chợ Lớn. Tôi phải đi bộ về nhà nàng ở tận Bà Chiểu. Hai bên đường, dân cứ túa ra đứng nhìn những đòan bộ đội cũng thất thểu không kém tôi đi qua.

 Chiến tranh đã chấm dứt. Ít ra, lúc đó, lòng tôi cảm thấy nhẹ nhõm với ý tưởng này. Ngày mai ra sao, tôi tạm chưa nghĩ tới.
Dòng người , như dòng đời, cuốn tôi mất hút trong đó. Tôi đi về một phía, và em đi về một phía. Bóng tôi xiêu đổ theo cả một nửa đất nước đổ xiêu cái ngày tháng 4 định mệnh ấy. Ngày ấy, với đôi chân trần rướm máu lê những bước mệt mỏi về lại thành phố Sài Gòn, tôi không biết rằng, rồi đây , cũng đôi chân trần ấy tôi sẽ bước những bước lưu đầy trên khắp miền đất nước : Trảng Lớn, Long Giao, Kà Tum, Suối Máu, Yên Bái, Lào Cai, Vĩnh Phú , Xuân Lộc . . .
Gần 9 năm sau ngày 30 tháng 4 định mệnh ấy, tôi trở về từ những trại giam . Bước những bước chân buồn bã trên hè phố Sài Gòn, tôi không thể không nhớ đến cái ngày mà tôi thực sự muốn quên. Và tôi lại nghĩ đến nàng cùng với nỗi tuyệt vọng của sự chờ đợi.
Bước chân trên hè phố cũ 9 năm sau không phải để đến nhà nàng . Người xưa  quá mòn mỏi vì đợi chờ nên đã theo người khác về một nơi tôi không bao giờ biết, không muốn biết.

Vậy mà tôi vẫn muốn gặp được người.

Vậy mà tôi vẫn không thể quên ngày 30 tháng 4 năm 1975 của tôi.

T.Vấn

T.Vấn(c)2011

Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2011

Giải phóng miền Nam”: Cho ai và vì ai? (Phần 1 & 2)

Ngọc Trân, thông tín viên RFA

2011-04-29
Tháng 4 năm 1975, những người cộng sản tiến vào Sài Gòn “giải phóng miền Nam” kết thúc cuộc chiến giữa hai miền Bắc – Nam, kéo dài trong 21 năm.
AFP photo
Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Lưu Thiếu Kỳ (P) ăn trưa cùng ông Hồ Chí Minh (T) vào tháng 8/1959 tại Bắc Kinh.
Ba mươi sáu năm sau cuộc chiến này, dựa trên các tài liệu đã được giải mật thời gian gần đây, nhiều người nhận ra, cái gọi là “công cuộc giải phóng miền Nam” do những người Cộng sản Việt Nam tiến hành, thật sự không phải vì Việt Nam.

Vì Liên Xô vào để truyền bá Chủ nghĩa Cộng sản

Sau Đệ nhị Thế chiến, Joseph Stalin, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu thực hiện kế hoạch mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình bằng cách hỗ trợ nhiều quốc gia tiến hành cách mạng vô sản, sử dụng bạo lực để lật đổ các chính thể hiện hành, thiết lập các nhà nước Xã hội Chủ nghĩa, đưa cả thế giới cùng tiến lên Chủ nghĩa Cộng sản.
Năm 1958, ông Hồ Chí Minh, người lãnh đạo chính quyền Cộng sản ở miền Bắc, Việt Nam, tuyên bố: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý, xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ Xã hội Chủ nghĩa”.
Tháng 1 năm 1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp Hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã ra nghị quyết cho phép các lực lượng Cộng sản miền Nam sử dụng bạo lực để lật đổ chính quyền miền Nam. Và rồi cuộc chiến Bắc - Nam đã được những người Cộng sản khơi mào bằng các phong trào kiểu như “Đồng khởi” ở Bến Tre, lan ra các tỉnh Nam Bộ, sách động quần chúng đấu tranh vũ trang kết hợp với chính trị.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương Đảng, cuối năm 1960, Đảng Cộng sản cho ra đời Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, một tổ chức chính trị, quân sự của Đảng Cộng sản, hoạt động ở miền Nam với mục đích lật đổ chính quyền miền Nam, thống nhất Việt Nam, để biến Việt Nam thành một khối thống nhất, thành viên của cộng đồng các quốc gia xã hội chủ nghĩa. 
Trong giai đoạn vừa kể, những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam và Cộng sản Liên Xô liên tục qua lại thăm viếng nhau. Đến cuối năm 1960, hai bên bắt đầu ký nhiều thỏa thuận, trong đó, Liên Xô cam kết viện trợ quân sự và kinh tế cho chính phủ miền Bắc, để giúp miền Bắc “giải phóng miền Nam”.
Ngày 6 tháng 1 năm 1961, hai tuần trước khi ông Kennedy tuyên bố nhậm chức tổng thống Mỹ, ông Nikita Khrushchev, Thủ tướng Liên Xô, tuyên bố, Liên Xô sẽ hỗ trợ "các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc" trên toàn thế giới, trong đó có Cuba và Việt Nam. Khrushchev gọi đây là những cuộc chiến tranh “thần thánh”. Ông Ilya Gaiduk, nhà sử học người Nga, tiết lộ, trong kế hoạch của Moscow, Việt Nam trở thành một kênh chính để tạo ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á.
Ngày 31 tháng 1 năm 1961, Tổng thống Kennedy tuyên bố, những diễn biến vừa kể là bằng chứng về tham vọng muốn thống trị thế giới của Cộng sản Liên Xô và Trung Quốc.

“Tiền đồn của phe XHCN ở Đông Nam Á”

Ngoài việc Liên Xô muốn vào truyền bá Chủ nghĩa Cộng sản, những người Cộng sản Việt Nam cũng muốn biến đất nước trở thành “tiền đồn của phe XHCN ở Đông Nam Á”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15, năm 1959, nêu rõ: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á. Đế quốc Mỹ chiếm cứ miền Nam, âm mưu xâm lược miền Bắc là để tấn công phe xã hội chủ nghĩa. Cho nên, thắng lợi của cách mạng Việt Nam quan hệ trực tiếp đến phe xã hội chủ nghĩa, làm cho phe xã hội chủ nghĩa càng rộng lớn, vững mạnh”.
000_APP2000041601815-250.jpg
Ông Lê Duẩn chụp vào ngày 15/5/1975. AFP photo
Ngày 9 tháng 2 năm 1964, báo Pravda của Đảng Cộng sản Liên Xô đưa tin, một đoàn đại biểu của Đảng Lao Động Việt Nam do ông Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất dẫn đầu, đã đến thăm Liên Xô. Theo đó: "Hai bên đã thể hiện sự đoàn kết của phe XHCN và phong trào cộng sản thế giới, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa Đảng cộng sản Liên Xô và Đảng Lao động Việt Nam, giữa Liên bang Xô Viết và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và các nguyên tắc của phong trào vô sản quốc tế".
Kể từ đó, khối cộng sản, đứng đầu là Liên Xô, đã gia tăng viện trợ quân sự, từ vũ khí, đạn dược, xe tăng, tên lửa, máy bay…cho đến các cố vấn quân sự, thậm chí cả binh lính, cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, để lật đổ chính quyền miền Nam, thực hiện cuộc cách mạng vô sản, biến Việt Nam thành “tiền đồn của phe XHCN ở Đông Nam Á”. 
Trong bài nói chuyện đăng trên báo Nhân Dân, ngày 20 tháng 7 năm 1965, ông Hồ Chí Minh đã cảm ơn Liên Xô, Trung Quốc về sự giúp đỡ này, ông nói: “Tôi thay mặt đồng bào cả nước nhiệt liệt cảm ơn Liên Xô, Trung Quốc và các nước Xã hội Chủ nghĩa anh em khác, cảm ơn nhân dân tiến bộ khắp năm châu. Nhân dân Việt Nam quyết tâm làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng, giải phóng Tổ quốc của mình, chặn tay bọn đế quốc Mỹ xâm lược, giữ vững tiền đồn của phe XHCN ở Đông Nam Á”.
Tuy Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN giúp đỡ lãnh đạo miền Bắc với mục đích truyền bá Chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam và rộng hơn là các nước Đông Nam Á, thế nhưng ông Hồ Chí Minh chỉ thấy sự giúp đỡ này là “vô tư”, “không vụ lợi”. Ông cho biết: “Các nước bạn giúp ta một cách khẳng khái, vô tư, như anh em giúp nhau, tuyệt đối không có chút gì vụ lợi. Các nước bạn chỉ mong chúng ta cố gắng làm cho nhân dân ta thắng lợi trong cuộc đấu tranh”. Và ông  ông Hồ Chí Minh cho biết, ông "luôn hướng về Liên Xô, đất nước của Lênin vĩ đại và coi Liên Xô là Tổ quốc của cách mạng, Tổ quốc thứ hai của mình".
Tháng 2 năm 1966, khi đến Moscow tham dự Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 23, ông Lê Duẩn tuyên bố, ông có hai tổ quốc, đó là Tổ quốc Việt Nam và Tổ quốc Liên Xô. Ông Lê Duẩn cũng cám ơn Liên Xô về sự "viện trợ to lớn và nhiều mặt" cho chính phủ miền Bắc. Trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài, ông Lê Duẩn cho biết: “Liên Xô giúp chúng tôi bằng trái tim của họ, và họ đã giúp chúng tôi nhiều hơn chúng tôi có thể sử dụng, và Trung Quốc cũng giúp đỡ chúng tôi”.
Sử gia Douglas Pike nhận xét về cuộc chiến “giải phóng miền Nam” do miền Bắc khởi xướng như sau: “Bản chất của cuộc chiến tranh đã thay đổi trên thực tế: từ một anh Việt Cộng chân đất với khẩu súng ngắn tự tạo, cho tới những lực lượng quân đội Cộng sản Việt Nam được trang bị những thứ vũ khí hiện đại nhất mà thế giới cộng sản có thể sản xuất”.
Cuộc chiến tranh được gọi là “giải phóng miền Nam”, ngoài mục đích Liên Xô muốn đưa Chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam, biến Việt Nam thành tiền đồn của phe Xã hội Chủ nghĩa ở Đông Nam Á, những người Cộng sản Việt Nam đã “giải phóng miền Nam, là “giải phóng” cho ai? Đó sẽ là nội dung của bài kế tiếp.

Ngọc Trân, thông tín viên RFA

2011-04-29
Hàng năm, cứ mỗi lần đến ngày 30 tháng 4, Đảng và Nhà nước Việt Nam long trọng tổ chức kỷ niệm ngày “giải phóng miền Nam”.
Một đơn vị pháo binh của quân đội Việt Nam triển khai dọc theo đường biên giới Việt -Trung thuộc tỉnh Lạng Sơn hôm 23 tháng 2 năm 1979. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, TQ đồng loạt tấn công VN theo đường biên giới Việt-Trung
Trong dịp này, những người “chiến thắng” luôn tự hào và hãnh diện vì đã đánh thắng đế quốc Mỹ, một cường quốc hùng mạnh nhất thế giới.
AFP photo
Cái gọi là “công cuộc giải phóng miền Nam” mà những người Cộng sản Việt Nam đã tiến hành, ngoài mục đích xóa bỏ chế độ tư bản, kẻ thù của Chủ nghĩa Xã hội theo học thuyết Mác – Lênin, những người Cộng sản Việt Nam còn bị chi phối bởi mục đích nào khác?

Con cờ trong bàn cờ của Trung Quốc

Khi tiến hành “giải phóng miền Nam”, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ bị chi phối bởi Liên Xô mà còn chịu nhiều tác động từ Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Dựa trên các tài liệu đã được giải mật, do kế hoạch của Mao Trạch Đông muốn bành trướng xuống khu vực Đông Nam Á trong tương lai, nên lãnh đạo Trung Quốc không muốn cuộc chiến Việt Nam sớm kết thúc, mà muốn chiến tranh kéo dài để làm Việt Nam suy yếu.
Tháng 8 năm 1965, tại cuộc họp Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, gồm cả miền Nam Việt Nam, Thailand, Miến Điện, Malaysia, Singapore... Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản, xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy”.
Và những người Cộng sản Việt Nam đã giúp Trung Quốc thực hiện kế hoạch này. Trong số các tài liệu đã được giải mật, một tài liệu được lưu trữ ở Trung tâm Wilson cho thấy, trong cuộc họp với Mao Trạch Đông hồi năm 1970, ông Lê Duẩn đã cho ông Mao Trạch Đông biết, Việt Nam đang trường kỳ kháng chiến chống Mỹ là vì Trung Quốc. Ông Lê Duẩn đã nói, nguyên văn như sau: “Tại sao chúng tôi giữ lập trường bền bỉ chiến đấu cho một cuộc chiến kéo dài, đặc biệt trường kỳ kháng chiến ở miền Nam? Tại sao chúng tôi dám trường kỳ kháng chiến? Chủ yếu là vì chúng tôi phụ thuộc vào công việc của Mao Chủ tịch…Chúng tôi có thể tiếp tục chiến đấu, đó là vì Mao Chủ tịch đã nói rằng 700 triệu người Trung Quốc đang ủng hộ nhân dân Việt Nam một cách vững chắc”.
Ở một tài liệu khác, cuốn “Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua” – do Nhà xuất bản Sự Thật của Đảng Cộng sản Việt Nam phát hành – tại trang 53, có đăng nguyên văn nội dung lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam trả lời ông Đặng Tiểu Bình hồi năm 1966, như sau: "Sự nhiệt tình của một nước XHCN, với một nước XHCN khác là xuất phát từ tinh thần quốc tế vô sản. Chúng tôi không bao giờ nghĩ nhiệt tâm là có hại. Nếu các đồng chí nhiệt tâm giúp đỡ thì chúng tôi có thể đỡ hy sinh 2-3 triệu người... Miền Nam chúng tôi sẽ chống Mỹ đến cùng và chúng tôi vẫn giữ vững tinh thần quốc tế vô sản".

Những lời thú nhận

Tuy tiến hành cuộc chiến tranh “giải phóng miền Nam” là nhằm phục vụ mục tiêu đưa cả thế giới cùng tiến lên Chủ nghĩa Cộng sản, như tuyên bố của ông Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại”, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn không thể làm hài lòng cả Liên Xô lẫn Trung Quốc. Vì sao?
Cùng là Cộng sản nhưng cả Liên Xô lẫn Trung Quốc không thể “đoàn kết” với nhau, bởi bên nào cũng muốn tạo ảnh hưởng, chi phối khu vực Đông Dương và rộng hơn là khu vực Đông Nam Á.
000_ARP2093992-250.jpg
Cư dân ở các huyện biên giới phía Bắc tìm nơi trú ẩn khi Trung Quốc đồng loạt tấn công dọc theo biên giới Trung-Việt. Ảnh chụp ngày 23 tháng 2 năm 1979. AFP photo
Sau khi chiến tranh kết thúc, nhận thấy Việt Nam có vẻ muốn ngả hẳn về phía Liên Xô, năm 1979, Trung Quốc đã xua quân tràn sang Việt Nam, nhằm “dạy cho Việt Nam một  bài học”. Đến lúc này, Nhà xuất bản Sự Thật – một cơ quan thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam - mới công bố những bí mật trong quan hệ Việt – Trung ở giai đoạn tiến hành “giải phóng miền Nam”, “đánh Mỹ cho Liên Xô, Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại”, qua cuốn “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua”. 
Tại trang 5 của tác phẩm vừa dẫn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thú nhận: “Trên thế giới chưa có người lãnh đạo một nước nào mang danh là ‘cách mạng’, là ‘xã hội chủ nghĩa’ và dùng những lời lẽ rất ‘cách mạng’ để thực hiện một chiến lược phản cách mạng, cực kỳ phản động như những lãnh đạo Trung Quốc. Trên thế giới chưa có những người lãnh đạo một nước nào về mặt chiến lược đã lật ngược chính sách liên minh, đổi bạn thành thù, đổi thù thành bạn nhanh chóng và toàn diện như những người lãnh đạo Trung Quốc”.
Ở trang 73 của tác phẩm này, những người cộng sản Việt Nam đã cay đắng thú nhận: “Những người cầm quyền Trung Quốc, xuất phát từ lợi ích dân tộc, họ có giúp Việt Nam khi nhân dân Việt Nam chiến đấu chống Mỹ, nhưng cũng xuất phát từ lợi ích dân tộc, họ không muốn Việt Nam thắng Mỹ và trở nên mạnh, mà chỉ muốn Việt Nam yếu, lệ thuộc Trung Quốc...Họ lợi dụng xương máu của nhân dân Việt Nam để buôn bán với Mỹ... Họ muốn chia rẽ Việt Nam với Liên Xô và các nước XHCN khác”.
Cũng trong tác phẩm vừa dẫn, ở trang 100, Đảng Cộng sản Việt Nam cho biết âm mưu của Trung Quốc trong cuộc chiến Việt Nam như sau: “Họ bật đèn xanh cho Mỹ ném bom miền Bắc Việt Nam, đồng thời đưa quân Mỹ trực tiếp xâm lược miền Nam, Việt Nam. Khi Việt Nam muốn ngồi vào thương lượng với Mỹ để phối hợp ba mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao thì họ ngăn cản. Khi nhân dân Việt Nam trên đà đi tới thắng lợi hoàn toàn thì họ bắt tay với chính quyền Nixon, dùng xương máu của nhân dân Việt Nam để  đưa nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lên địa vị ‘siêu cường thứ ba’ và đổi chác việc giải quyết vấn đề Đài Loan”.
Mười một năm trước khi lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam nhận ra và thú nhận những điều vừa kể, vào  tháng 3 năm 1968, khi phát biểu tại trường Đại học Kansas, Thượng nghị sĩ Robert Kennedy đã tuyên bố, mục tiêu của cuộc chiến “giải phóng miền Nam” do Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành, thật ra chỉ vì Trung Quốc muốn Mỹ sa lầy.
Ông Robert Kennedy nhận định: “Mao Trạch Đông và các đồng chí Trung Quốc của ông ta yên lặng ngồi nhìn: [Việt Nam] đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng. Họ xem chúng ta làm suy yếu một nước, là hàng rào vững chắc chống lại sự bành trướng của Trung Quốc xuống phía Nam. Họ hy vọng sẽ buộc chúng ta chặt hơn trong cuộc chiến kéo dài ở Campuchia, Lào và Thái Lan. Họ tự tin rằng cuộc chiến ở Việt Nam ‘sẽ càng làm cho Mỹ sa lầy, hủy hoại tài nguyên, mất uy tín về sự kỳ vọng của các nước vào sức mạnh của Mỹ, chúng ta bị đồng minh xa lánh, xung đột với Liên Xô, và bất đồng gia tăng trong dân chúng Mỹ’. Như một nhà quan sát Mỹ đã nói: ‘chúng ta dường như đang bị chơi đúng kịch bản mà Mao đã viết ra’.”
Ba mươi sáu năm sau khi cuộc chiến tranh “giải phóng miền Nam” kết thúc, Trung Quốc càng ngày càng hùng mạnh hơn và sự hùng mạnh đó đang gây trăn trở cho hàng triệu người Việt. Còn lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục tự hào vì đã “giải phóng miền Nam”.

Thứ Năm, 28 tháng 4, 2011

Phải chăng kẻ chiến thắng cam tâm tình nguyện đi làm “Lao Nô” cho quân thù?


Hà Long4/27/2011







Càng gần đến ngày 30/4 những người chiến thắng, đích danh gọi là cộng sản Bắc Việt thì họ sẽ sơn son thếp vàng lại tấm bảng “PHONG THÁNH” cho cuộc “Đại Thắng Mùa Xuân 1975” thật thần thánh “Chống Mỹ, cứu nước - Giải phóng Miền Nam”, đã đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào. Đúng như thế, Mỹ đã phải tủi nhục thân tàn ma dại chạy trối chết thoát khỏi vũng lầy chiến tranh VN; còn bọn Ngụy, đích danh gọi là Quân Đội VN Cộng Hòa và chính quyền tự do dân chủ Miền Nam bàng hoàng lo sợ chịu thân phận của kẻ chiến bại và phải chấp nhận tất cả mọi sự trừng trị của cs Bắc Việt. Hình như sự trừng phạt này vẫn còn tiếp tục… kéo dài đến 36 năm nay. Chỉ cần lật một trong 700 tờ báo lề phải, như tờ QĐND trong những ngày cuối tháng 4 là người đọc thấy họ đang rỉ rả về những luận điệu thù hận này.

Phóng viên chiến trường người Anh, ông John Pilger thuở ấy ghi lại nhật ký chiến trường vào những ngày cuối cùng của tháng 4/1975 tại thủ đô Sài Gòn. Lúc ấy vị đại sứ Mỹ Graham Martin xuất hiện trên truyền hình Sài Gòn, cam kết Washington sẽ không rời Việt Nam. Lời cuối cùng của ông Martin: "Tôi, Đại sứ Mỹ, sẽ không chạy trốn lúc nửa đêm. Bất kỳ ai cũng có thể tới nhà tôi và chứng kiến tôi chưa thu dọn hành lý".

Một lời trấn an hèn nhát của vị đại diện chính quyền Washington trước khi đào tẩu. Phóng viên Pilger cho biết thêm về một tín hiệu triệt thoái rút quân toàn diện của quân đội Mỹ vào ngày 29/4/1975 khi lực lượng quân đội Mỹ cho phát sóng Radio mật hiệu di tản bằng bản nhạc Giáng Sinh bất hủ do ca sĩ nổi danh Bing Crosby hát: " I'm dreaming of a white Christmas " – (Tôi mơ ước về một Giáng Sinh tuyết) thì một người bạn hữu của nhà phóng viên Pilger đã quyết định ngay lập tức: "OK, chạy được rồi đấy!". (Một thông báo về di tản được bí mật ghi ra như sau: mang theo hai bộ quần áo để thay đổi, một áo mưa, một bộ dụng cụ may vá, một cái ô dù, một cái mở hộp, thuốc phòng chống côn trùng, giấy chứng nhận kết hôn…). Cuộc di tản căng thẳng chớp nhoáng và cuối cùng trên nóc nhà tòa đại sứ Mỹ đã đưa được khoảng 7.000 người bằng trực thăng ra khỏi VN, gồm 1.300 người Mỹ và 5.500 người Việt trong vòng 18 tiếng đồng hồ.

Thế là hết! Chấm dứt cuộc tham chiến của Mỹ với người bạn Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30/4/1975. Miền Nam Việt Nam đã bị bức tử!

Thời gian qua mau, đã 36 năm rồi! Thời gian của một nửa đời người sống trên hành tinh này! Bắc Nam đã thống nhất, nhưng đến ngày kỷ niệm thứ 36, thay vì có thể kể cho nhau nghe những từ ngữ yêu thương, hòa giải, nối kết tình anh em giữa hai miền thì người Miền Nam vẫn còn phải đón nhận những mặc cảm của kẻ chiến bại, vẫn còn là ngụy quân, ngụy quyền, bù nhìn tay sai, phục vụ cho âm mưu thực dân mới, những từ ngữ Mỹ cút Ngụy nhào vẫn còn oang oang nơi cửa miệng của kẻ tiếp tục say men chiến thắng để chủ đích kết án bản chất hiếu chiến phản động cho người Miền Nam. Điều ấy chẳng khác chi một bản giáo điều bảo thủ mù quáng nhằm nuôi dưỡng thù hận của quá khứ chiến tranh!

Đến nay, chưa có một luận đề tin tưởng và bao dung nào được nói về sự hòa giải bình đẳng của dân tộc ngoài cách đe dọa cải tạo hoặc bắt đi tù học tập từ năm 1975 tại Việt Nam. Nước Đức sau thống nhất, các nhà lãnh đạo chính trị cũng như tôn giáo, xã hội quá khoan dung, thay vì trả thù hoặc kết án kẻ chiến bại, tất cả mọi người đồng tâm đưa tay ra kết đoàn nâng đỡ và xây dựng đất nước.

Tại Việt Nam, chờ mãi đến 35 năm sau mới có một người can đảm ký tên Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ gửi thư lên Quốc Hội VN vào ngày 30/8/2010: “Kiến nghị trả tự do cho tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam cộng hòa”. Lời kiến nghị này chẳng khác những gì người Đức giữa Đông và Tây đã thực hiện thành công trong 20 năm vừa qua cho dân tộc họ. Luật sư Cù Huy Hà Vũ - người đang được thế giới chú ý về bản án tù bất công 7 năm, đã đưa ra luận đề thuận lòng người, ít nhất cho những người đã được hưởng cuộc sống tự do của chế độ VN Cộng Hòa: “Dù là tất yếu để Non – Sông Việt Nam liền một giải, để Độc lập Dân tộc được toàn vẹn thì đó vẫn là một cuộc Nội chiến, một cuộc chiến tranh Huynh - Đệ tương tàn giữa những người Việt Nam.

Vì vậy, một khi chiến tranh chấm dứt thì xóa bỏ hận thù giữa những người Việt từng ở hai bờ chiến tuyến hay Hòa giải Dân tộc là Nghĩa vụ, và hơn thế nữa, là Đạo lý của mọi người Việt Nam. Và trong sự nghiệp Hòa giải này – tôi khẳng định – vĩ đại không kém cuộc chiến vừa kết thúc nhằm thống nhất đất nước – những người chiến thắng phải đi bước trước, mà giang tay ôm vào lòng những người anh em chiến bại để tỏ chữ Hiếu đối với Mẹ chung - Tổ quốc, để mọi người Việt dẫu chính kiến có khác biệt lại sum họp Một Nhà!

… Trớ trêu thay, Ban lãnh đạo của nước Việt Nam thống nhất sau 30 năm chiến tranh chẳng những đã không học tập tấm gương hòa giải dân tộc của Hồ Chí Minh, mà ngược lại, còn khoét sâu vết thương của dân tộc bằng việc tập trung “cải tạo” trong nhiều năm trời cả trăm nghìn quân nhân, viên chức Việt Nam cộng hòa, bằng kỷ niệm liên tục 35 năm nay “Ngày giải phóng Miền Nam” đậm chất “thắng – thua”… đẩy không ít người Việt thuộc chính quyền cũ rơi vào vòng xoáy của sự thù hận với hệ quả là một số người bị chính quyền mới kết vào “tội xâm phạm an ninh quốc gia”!

Một khúc mắc thời đại, hay đúng hơn là một vết thương nhiễm trùng chưa có thuốc kháng chế bám chặt trên cơ thể của 3 triệu đảng viên csVN từ 36 năm qua. Vết thương này, cho đến nay không ai được phép đụng vào cứu chữa cho nó. Ngày nay Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ tìm cách tiếp cận đến thân chủ để mổ xẻ ung nhọt độc hại này: “Và hận thù ấy lại dẫn đến chia rẽ khác không kém phần đau đớn, lần này ngay trong nội bộ những người đã ca khúc khải hoàn, bởi có mấy gia đình Việt Nam không có người thân ở bên kia chiến tuyến.

Kinh khủng hơn nữa, chính những hận thù và chia rẽ dân tộc ấy đang từng ngày, từng giờ tiếp tay cho nguy cơ Việt Nam bị Bắc thuộc lần thứ Tư và lần này e vĩnh viễn!”. - Hết trích.

Theo thống kê, người Việt Nam đang sống trong giải đất hình chữ S với dân số 85 triệu thì gần 2/3 đã được sinh ra sau chiến tranh VN - hai thế hệ trẻ người Việt Nam đã sinh ra sau 1975, như thế trên dưới 50 triệu người VN chưa bao giờ nghe tiếng súng hoặc tiếng bom nổ trong đời của mình, và họ không phải nghĩ đến cảnh cầm súng bắn vào nhau nơi chiến trường. Tại sao phải gieo lòng thù hận của quá khứ chiến tranh vào tâm trí của hai thế hệ trẻ này?! Có thể nói dân tộc Việt Nam sau sự đô hộ 100 năm của thực dân Pháp, bây giờ là lúc ngưng tiếng súng hoàn toàn để tạo thành một khối, gói trong cùng một bọc để có thể sống trong hòa bình xây dựng đất nước hùng mạnh.

Trong lúc này tư tưởng hòa giải thật lòng, từ con tim giữa hai miền Nam Bắc của Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ cần thiết hơn bao giờ hết cho dân tộc Việt Nam.

Minh chứng đã có của dân tộc Đức, họ chỉ cần thời gian 20 năm sau thống nhất đã thành công xây dựng đất nước tiến lên và nước Đức đang trở thành một quốc gia giàu mạnh nhất trong khối Liên Hiệp Âu Châu.

Phát triển đất nước Việt Nam thời hiện tại bằng kinh tế mũi nhọn Vanashin?

Còn Việt Nam với chính sách toàn quyền đảng trị của csVN sau 36 năm thống nhất chúng ta thực đã đủ sức vươn lên cao như sức mạnh của con rồng Á Châu? Chúng ta đã được phép tự hào sánh vai song bước cùng các quốc gia bạn bên cạnh và trong vùng? Được gia nhập WTO thay vì gia tăng được sức mạnh từ đôi tay của mình hay luôn phải cúi đầu ngửa tay nhận viện trợ của người ngoài nhằm tiếp tục xóa đói giảm nghèo?

Sức mạnh của thế giới được tính theo sự tăng trưởng kinh tế và sự nâng cao đời sống của người dân. Dường như người quốc nội cũng như những nhà đầu tư ngoại quốc đang nhìn thấy những công trình mũi nhọn của VN cứ như con tàu thả dốc không phanh xe. Tên gọi Vinashin với số nợ kinh hoàng hơn 86.000 tỷ đồng, tiếp theo với các tin tức trong những ngày vừa qua đăng tải về vụ Công ty Cho thuê tài chính ALC II liên quan đến ngân hàng Agribank cũng đang trên đường phá sản giống như dập khuôn với Vinashin vì thua lỗ 3.000 tỉ đồng. Được kể thêm phải nêu ra Tổng công ty xăng dầu đang thâm thủng ngân quỹ hàng ngày tỉ đồng chỉ trong vòng 3 tháng. Thua lỗ cứ gia tăng như cơn sóng thần Tsunami cuốn vào nền kinh tế VN, ví dụ năm 2010 công ty Điện lực Việt Nam (EVN), một tập đoàn lớn của Nhà nước đã thông báo lỗ hơn 8.000 tỉ đồng. Thế mà vào đầu tháng 4/2011 tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) cho biết, EVN còn nợ tập đoàn này khoảng 5.000 tỉ đồng. Chuyện nợ ngàn tỉ cứ như trò đùa chẳng khác đưa tay mua vài bó rau trong thời bão giá: đã lỗ thật to làm sao còn sớm trả được nợ? Tiếp theo vào đầu tháng 3/2011 Thanh tra Chính phủ cho biết 5 ngân hàng to đã có nhiều sai phạm gây thất thoát 160 tỷ đồng cho nhà nước.

Câu chuyện nợ nần của VN chưa kịp đến hồi kết thúc thì cách đây vài hôm, 20/4/2011 báo chí lại khui thêm ra việc Tập đoàn Công nghiệp Than khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) đã lên tiếng về việc EVN nợ mình 1.600 tỷ đồng, thời điểm mang nợ tính đến 31/3/2011. Như vậy, trong khoảng một thời gian ngắn tập đoàn Điện lực Việt Nam đã bị phanh phui ra số nợ lớn của PetroVienam và Vinacomin, cộng chung nợ của 2 nơi là 6.600 tỷ đồng. Nếu tính thêm vào số thua lỗ 8.000 tỉ đồng trước đó sẽ tổng cộng ra một con số rất nghiêm trọng 14.600 tỉ đồng. Tập đoàn EVN luôn được mệnh danh là đứa “con cưng” của nền kinh tế Việt Nam và đang “ngập đầu ngập cổ” trong nợ nần.

Lại một đứa “con cưng” khác của nền kinh tế nước nhà, Công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) đã thua lỗ đậm trong 3 tháng đầu năm. Báo SGTT đưa tin: sáng nay 4/4, bà Đàm Thu Huyền, phó tổng giám đốc tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) cho biết, thống kê nhanh của đơn vị này cho thấy, tính đến hết ngày 31/3, Petrolimex đã lỗ 2.650 tỉ đồng trong quý 1. Tính ra mỗi ngày công ty Petrolimex đang lỗ một khoản tiền khổng lồ trên 29 tỷ đồng. Nhà nước đang giữ 75% cổ phần của tổng công ty này.

Lãnh đạo Bộ Tài chính, Bộ trưởng Vũ Văn Ninh cũng thừa nhận một sự phá sản có hệ thống từ những tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước thua lỗ khi ông cho biết thống kê cách đây 2 năm trước: Năm 2009, cả nước có 1.358 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI hoạt động. Tuy nhiên, có tới 56% trong số này báo cáo làm ăn thua lỗ. Hầu như họ đều là những doanh nghiệp nhà nước hoặc có cổ phần của nhà nước.

Nhìn thất bại thê thảm như thế người ta có thể nói rằng một đằng do quản lý kinh tế, tài chính yếu kém, đằng khác phải có một động cơ to lớn đứng sau lưng, đó là một màng nhện rối mù nhằm hưởng lợi chia chác miếng bánh với nhau hoặc táo tợn tham gia vào đục khoét tham nhũng, rửa tiền hoặc lấy tiền nhà nước làm của riêng.

Sự tụt dốc về kinh tế đang đè nặng lên nợ công của Việt Nam, năm 2010 đã đạt đến mức 56,6% GDP: tổng sản lượng quốc gia. Mức nợ công kỷ lục của VN dưới triều đại của TT Nguyễn Tấn Dũng. Con số này so sánh với nợ công của Hy Lạp khoảng 1/3. Đây là một tiếng chuông báo động cho nền kinh tế VN, dù rằng nhiều chuyên gia kinh tế VN vẫn kiên định số nợ công của VN còn nằm trong ngưỡng cửa an toàn. Người bi quan cho rằng nợ công ở Việt Nam đang tăng nhanh và sẽ trở thành căn bệnh "kinh niên" của nền kinh tế. Đàng khác những tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước cứ tiếp tục thua lỗ - có nơi đã tuột dốc đến 3 năm rồi – thì lãi xuất của nợ công rõ ràng càng tăng lên cao.

Tình hình kinh tế lụn bại chưa từng xảy ra đang làm cho người dân VN xoay sở rất khó khăn trong thời bão giá trầm trọng này. Nạn lạm phát đang từ 8,93, nay trong tháng 3 đã phi mã tới mức độ báo động 13,89% khiến cho Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế phải liên tục cảnh báo nhà nước csVN. Nơi đang đoạt giải quán quân gây sốc về lạm phát là TP Sàigòn với 14% so với năm vừa qua và cũng là mức cao nhất kể từ tháng 5/2008. Lại thêm một kỷ lục mới về lạm phát của TT Nguyễn Tấn Dũng khi ông hãnh diện đưa ra chỉ tiêu lạm phát chỉ đến ngưỡng 7% cho năm 2011. Ngoài ra nguồn ngoại tệ dự trữ của năm 2010 là 25,8 tỉ Đôla, bây giờ đã bốc hơi nhanh chóng mất đi một nửa còn 12,2 tỉ trong đầu năm 2011. Công ty xếp hạng tín nhiệm về đầu tư Moody's Investors Service Inc. cảnh báo rằng nếu nguồn ngoại tệ dự trữ tiếp tục giảm sẽ làm mất cán cân cân bằng kinh tế tại VN.

Nếu tính thêm nợ nước ngoài chúng ta sẽ thấy con số cứ vùn vú tăng lên cao cho nhà nước VN. Vào tháng 1/2011 Bộ Tài chính đã công bố bản tin nợ nước ngoài số 6 và cho biết trong năm 2010 VN đã vay thêm 1 tỉ USD, nâng tổng số nợ lên 29 tỉ USD, chiếm 42,2% GDP. Số tiền lãi phải trả cho chủ nợ nước ngoài thì Việt Nam phải cần trên 4 tỉ USD, tương đương 80.000 tỉ ĐVN để hoàn thành số nợ cho năm 2011. Các nhà kinh tế nhìn ra số tiền này đang chiếm đến 11,9% tổng chi ngân sách của VN.

Nhà nước csVN luôn có một biệt tài chạy chữa theo kiểu đột phá “vỡ chỗ nào đắp ngay chỗ đấy” hoặc là “đi tắt đón đầu” trong cảnh “dầu sôi lửa bỏng” đang làm cho cuộc sống của người dân điêu đứng lầm than về bão giá: thực phẩm, điện, nước, gas xăng dầu, nhà cửa, thuốc men, v.v… tăng lên như phi mã và cộng thêm với đồng tiền VN trượt giá. Dân nghèo cứ phải thắt lưng buộc bụng sống vất vưởng cho qua ngày.

Tiện nói về lạm phát chúng ta cần biết thêm một chút về Hy Lạp và Ireland. Tại Hy Lạp mức lạm phát trong năm 2010 tăng lên 5,4%, mức cao nhất từ 13 năm nay. Và Ireland cũng trong năm 2010 nạn lạm phát phi mã lên 5,6%, khi ấy trong khi khối Liên Minh Âu Châu đồng lòng lấy tiêu chuẩn ở mực cao nhất là 3%. Việc gì đã đến với hai quốc gia này thế giới đã biết tỏ tường: bị phá sản toàn diện, dân chúng lầm than với bão giá. Như thế, mức báo động đỏ 13,89% vượt kỷ lục lạm phát ở VN có làm cho người dân lo sợ không? Và VN đang tiến dần đến bờ vực thẳm phá sản chăng?

Đọc được 2 bình luận trong báo nhà nước, tờ mạng Vietstock (Thông tin dữ liệu tài chính kế toán kinh tế VN) vào ngày 20/04/2011 với tựa đề “Lạm phát của Việt Nam đứng thứ 2 thế giới” cho thấy tình hình kinh tế hiện tại rất khẩn trương. Nhìn vào các nước trong khu vực tại châu Á, họ chỉ có lạm phát từ mức 0 đến 6% mà thôi.

Tại diễn đàn mở của báo Vietstock chúng ta đọc được những bức xúc hiện tại của người dân, ví dụ điển hình qua:

- San (20/04/2011 - 14:44): Bao nhiêu năm liền gần đây lạm phát VN luôn ở mức quá cao, dân nghèo càng ngày càng khổ, mà sao không thấy ai phải chịu trách nhiệm nhỉ?

- Đỗ Trọng Tường (20/04/2011 - 12:22): Hoan hô VN ta đứng hạng nhì thế giới (về lạm phát). Thật là OAI - HOÀNH TRÁNG và vinh dự cho VN ta. Như vậy ta có đi ra ngoại quốc thì thế giới sẽ phải NGẢ NÓN mà kính nể TA chứ. Đây là một minh chứng hùng hồn cho sự TÀI LÃNH ĐẠO và điều hành kinh tế của đất nước. HY VỌNG rằng trong thời gian tới TA phải Đứng hạng 1 thế giới, thế mới thật là OAI hoàn hảo.

Trở về đống sắt vụn khổng lồ Vinashin, một điều thú vị khi tìm được các tài liệu của các năm cũ, một chi tiết cho chúng ta thấy nợ quá hạn của Vanashin vào năm 2008 khi được thanh tra kiểm đến chỉ là một con số rất nhỏ không đáng lo ngại cho một mũi nhọn kinh tế nhà nước hàng đầu: 3.812 tỉ đồng nợ. Đùng một cái, như cơn sóng thần Tsunami ụp đến, chỉ qua 2 năm sau tiền nợ đã trở thành 86.000 tỉ đồng. Kỷ lục của Việt Nam!

Một chi tiết khác chúng ta cần biết, theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước VN, tính đến 31/12/2008, tổng nợ tín dụng của 7 Tập Đoàn mũi nhọn quốc gia (Dầu khí, Than khoáng sản, Cao su, Dệt may, Công nghiệp Tàu thủy, Điện lực, Bưu chính Viễn thông) là 128.786 tỉ đồng, tăng nợ lên 20,54% so với cuối 2007, chiếm gần 10% so với tổng nợ tín dụng đối với nền kinh tế VN ở cùng thời điểm.

Như thế, những món nợ và thua lỗ của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước kể trên có thể tuột dốc theo dấu vết của chiếc tầu mũi nhọn Vinashin không? Thời gian sẽ là mức đo chính xác nhất cho họ và cho nhà nước csVN!

Cuộc cứu nguy nền kinh tế VN bằng cách xuất khẩu lao động hoặc là buôn nô lệ?

Theo cách nhìn của chính quyền csVN, qua cuộc Hội thảo Đánh giá thực trạng lao động đi làm việc ở nước ngoài đã trở về Việt Nam vừa diễn ra ở Hà Nội thì chương trình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài đã trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn (Sic!), nhằm góp phần giải quyết nhiều vấn đề của lao động xã hội như giải quyết việc làm cho người dân.

Cách định nghĩa này xem thật mỹ miều và mang tính nhân văn kinh tế. Kế hoạch cứu nguy nền kinh tế này đã được thực hiện trong nhiều năm nay. Lý do chính đáng là lợi nhuận quá to lớn cho người ban hành luật về nó, còn công nhân đi lao động cũng có dịp cải thiện cuộc sống kinh tế cho riêng mình và gia đình, điều này không ai có thể phủ nhận về việc mang sức lực và mồ hôi đổi lấy cơm ăn áo mặc của họ. Nhiều người cũng đã dựa vào đó để đạt được thành quả tốt đẹp.

Một con số thống kê chính thức làm cho người đọc thấy được lợi nhuận đang nằm trong tay của nhà nước csVN. Theo báo cáo của Quỹ hỗ trợ XKLĐ thuộc Bộ LĐ-TB-XH vào tháng 3/2009 mở mắt cho chúng ta thấy một siêu lợi nhuận như sau: “… Từ năm 2004 (thời điểm thành lập) đến nay, Quỹ hỗ trợ XKLĐ đã thu tới hơn 92 tỷ US (Đôla Mỹ) nhưng đến nay Quỹ này mới chi hơn 2,4 tỷ. Theo Quyết định số 163/2004/QĐ-TTg, Quỹ hỗ trợ XKLĐ thuộc Bộ LĐ-TB-XH nhằm thực hiện việc phát triển thị trường lao động ngoài nước; nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của lao động VN trên thị trường lao động quốc tế; hỗ trợ rủi ro cho người lao động và doanh nghiệp trong hoạt động XKLĐ.”

Một cú làm ăn nhẹ nhàng, không tốn sức, giầu nhất mà lại nhàn nhất, chẳng cần phải bỏ vốn đầu tư mà siêu lợi nhuận mang về hàng tỉ Đôla Mỹ, hơn hẳn rất nhiều các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước.

Vì thế khi trao đổi với Thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày 23/3, ông Đào Công Hải, Phó Cục trưởng Cục quản lý lao động ngoài nước, Bộ LĐ-TB-XH khẳng định trong năm 2011, có thể hoàn thành chỉ tiêu đưa 87.000 lao động đi làm việc tại nước ngoài.

Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB-XH), năm 2010, các doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao động Việt Nam đã đưa lao động đi làm việc ở hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, với 85.546 lao động, đạt 100,64% kế hoạch, tăng 16,4% so với năm 2009.

Theo đánh giá của Cục Quản lý Lao động ngoài nước, hầu hết lao động nghèo đang có việc làm khá ổn định ở nước ngoài với mức thu nhập bình quân 4 triệu đồng đến 5 triệu đồng/tháng ở thị trường Malaysia; 6 triệu đồng đến 7 triệu đồng ở Libya, UAE và 15 triệu đồng đến 20 triệu đồng/tháng ở Nhật Bản, Hàn Quốc.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho biết con số của năm 2010 như sau:

28.499 lao động đi Đài Loan
11.741 lao động đi Malaysia
8.628 lao động đi Hàn Quốc
5.903 lao động đi Lào
5.242 lao động đi Libya
5.241 lao động đi UAE
4.913 lao động đi Nhật Bản
4.725 lao động đi đến các thị trường khác là
3.615 lao động đi Campuchia
3.124 lao động đi Macao
2.729 lao động đi Ả rập Xê út
1.204 lao động đi Bahrain

Cũng theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội báo cáo bảng thống kê từ năm 2007 đến tháng 6/2010 có 282.106 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng chính thức, trong đó họ đi đến các quốc gia làm việc:

89.887 lao động đi Đài Loan
39.817 lao động đi Malaysia
39.382 lao động đi Hàn Quốc
32.196 lao động đi Khu vực Trung Đông
19.590 lao động đi Nhật Bản
12.092 lao động đi Khu vực châu Phi

Nhìn con số 282.106 lao động chính thức (chưa tính thêm vào con số lớn lao động chui) để có đủ hồ sơ nhận việc làm cũng như để xuất cảnh, chi phí cho cò, cho các công ty có chức năng xuất khẩu lao động, cho chính quyền địa phương, các tòa đại sứ, vé máy bay, v.v… Đổ đồng mỗi bộ hộ sơ người lao động phải ứng trước cả 10.000 USD, có chỗ việc làm tốt phải chi nhiều tiền hơn. Điều này đã mang lại gần 3 tỉ USD, so sánh hơn một nửa số nợ khổng lồ của đống sắt vụn Vanashin. Một sáng kiến buôn nô lệ của thời đại mới như là cách thức nhằm tăng cường kinh tế cho họ. Ngoài ra, hàng năm phải cộng thêm số tiền gửi về cho gia đình của những người đi lao động nước ngoài khoảng 2 tỉ USD (số ước tính qua các ngân hàng, con số gửi ngoài có thể lên cao hơn nữa).

Thêm một tin thú vị sốt dẻo và thật mới vào ngày 22/4, tại TP Cần Thơ, Bộ LĐ-TB-XH phối hợp cùng Bộ Tư pháp tổ chức hội nghị toàn quốc về “Hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài”. Tình trạng phụ nữ VN lấy chồng nước ngoài trở thành ồ ạt theo phong trào „ra đi xóa đói giảm nghèo“ và bên cảnh xuất cảnh lao động thì việc lấy chồng nước ngoài cũng được xem là một nền kinh tế mũi nhọn quan trọng hàng đầu. Qua những tổ chức trung gian, cò và chi phí cho nhà nước làm giấy tờ số tiền lên đến hàng tỉ Đôla Mỹ. Tại hội nghị này Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đinh Trung Tụng cho biết: “Từ năm 1995-2010, cả nước có hơn 257.555 công dân VN kết hôn với người nước ngoài hoặc kết hôn với công dân định cư ở nước ngoài, trong đó có trên 80% là phụ nữ. Công dân VN đã kết hôn với công dân của hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ”. Trong đó, Trung Quốc chiếm gần 11%, Đài Loan chiếm 30%, Mỹ gần 14 %, Hàn Quốc gần 13%... Theo thống kê của Văn phòng Kinh tế-Văn hóa Đài Bắc, hiện có hơn 100.000 cô dâu VN đã lấy chồng sang Đài Loan. Con số lấy chồng nước ngoài này cũng chẳng kém gì những người đang đi lao động nước ngoài trong 15 năm vừa qua.

Hiện nay, 539.661 người đi lao động nước ngoài và các chị em phụ nữ lấy chồng nước ngoài đang là một nguồn lợi vô tận (không vốn) cho nhà nước csVN.

Báo chí Mỹ phanh phui ra vụ “Lao Nô” Việt Nam tại Mỹ vào ngày 15/4/2011

Những ngày vừa qua bài toán cho sự bền vững của kế hoạch đưa người đi xuất khẩu lao động nước ngoài vẫn chưa thể giải quyết vẹn toàn, nếu ký giả Lise Olsen tờ báo Mỹ của Housten Chronicle, Texas phát hành ngày thứ sáu, 15/4/2011 không viết về tệ nạn buôn người lao động bất hợp pháp từ VN với tựa đề dựa theo bản dịch của anh Ba Sàm: „Họ là những “Lao Nô nhập cư” bị các công ty của Mỹ lừa? Công nhân Việt cáo buộc các công ty ở bên nhà đã bóc lột họ“. (Were they 'indentured servants'? Cheated by U.S. firms, Vietnamese allege homeland exploited them). Một bài báo dài lột tả rõ ràng những chi tiết đen tối đứng đằng sau sân khấu lấy tên Xuất khẩu Lao động của nhà nước csVN.

Vị thẩm phán của Quận Harry đưa ra quyết định một khoản tiền bồi thường chưa có tiền lệ là 60 triệu Đôla cho những thợ hàn người Việt được tuyên bố là đã bị các công ty cung ứng lao động của Mỹ bóc lột.

Đơn kiện xác định thủ phạm là hai công ty lớn của Việt Nam, cả hai công ty này đều do nhà nước (VN) sở hữu một phần: Công ty Dịch vụ và Đầu tư Thương mại, tên viết tắt là Interserco, và Tổng công ty Công nghiệp Ô tô, tên viết tắt là Vinamotors.

Luật sư của các công nhân này, Tony Buzbee, cho rằng các công ty có quan hệ với chính phủ Việt Nam nói trên đã cố tình tuyển dụng lừa đảo để xuất khẩu rất nhiều người lao động và bóc lột họ theo cách chiếm đoạt số tiền tiết kiệm của họ rồi đưa họ sang làm việc tại những công ty của Mỹ chỉ muốn thu lợi từ những nhân công “chung quy chỉ là những lao nô nhập cư.” Đơn kiện lên tòa án liên bang này đòi một khoản tiền bồi thường nữa là 100 triệu đô.

Một điều hèn hạ theo thói quen làm việc cẩu thả vô trách nhiệm của các vị đại diện của nhà nước csVN tại nước sở tại- nơi nào cũng thế, họ trốn tránh gặp gỡ báo chí. Tờ báo Housten Chronicle cho độc giả Mỹ biết thêm tình tiết:

Nhân viên tại tòa lãnh sự quán của Việt Nam ở Houston đã không nhấc máy trả lời những lời cáo buộc và những cuộc gọi tới tòa đại sứ Việt Nam ở Washington rồi được hướng dẫn là phải gọi tới lãnh sự quán ở Houston. Phát ngôn viên của tòa đại sứ đã không nhấc máy trả lời các cú điện thoại gọi tới hôm thứ Tư.

Lý do thưa kiện được tờ báo địa phương này viết rất rõ ràng:

Năm 2008, người lao động muốn được tuyển dụng phải trả ngay một khoản thủ tục phí lên tới 15.000 đôla – số tiền này được gom từ tiền thế chấp nhà cửa, bán phương tiện làm ăn sinh sống và vay mượn tiền tiết kiệm cả đời của những người họ hàng. Để đổi lại, họ được hứa hẹn sẽ nhận được tổng số tiền công vào khoảng 100.000 đôla cho một hợp đồng kéo dài 30 tháng.

Sau khi sang tới Mỹ, những công nhân này được đưa tới sống trong “những ngôi nhà như dành cho súc vật”, “bị đối xử như những lao nô nhập cư” và bị sa thải sau 8 tháng khi chính các công ty môi giới này dự định thay họ bằng những chuyến hàng mới và do đó là những khoản thanh toán thủ tục phí mới, theo các cuộc phỏng vấn và theo đơn kiện được đệ trình lên tòa án liên bang hàng quận ở Galveston.

“Đây là cường quốc và chúng tôi không thể tin nổi, rút cục chúng tôi đã bị lừa như thế này, công ty đang lừa chúng tôi,” Ngo Ba Chin, một người trong số những công nhân nói trên đã trả lời báo Chronicle thông qua một người phiên dịch. Tình cảnh ở đây tồi tệ hơn bất cứ nước nào khác mà anh ta từng tới làm việc chẳng hạn như Nga, Hàn Quốc và Lybia. “Không khác gì đi tù.”

Vấn đề ngoại giao được đặt ra về nhân quyền và quyền của người lao động do tờ báo Housten Chronicle tiếp tục luận cứ:

Bộ Ngoại giao Mỹ công bố từ rất lâu trước đây đã chỉ trích chính phủ Việt Nam không bảo vệ công dân của mình khỏi nạn buôn người trong đó bao gồm cả việc “các công ty xuất khẩu lao động của Việt Nam”, hầu hết là những công ty của nhà nước, đã thu những khoản phí bất hợp pháp và quá cao. Những khoản phí này thuộc loại “cao nhất” so với mức phí của “nhân công nước ngoài đến từ tất cả các nước châu Á khác”, điều này khiến cho họ rất dễ bị rơi vào tình trạng bị trói chặt vì nợ nần và lao động cưỡng bách,” Báo cáo năm 2010 về tình hình buôn người do Bộ Ngoại giao công bố đã viết như vậy.- Hết trích.

Như thế, lần này nhà nước csVN sẽ phải muối mặt đối diện với dư luận của người dân Hoa Kỳ đang giơ tay chỉ đích danh kẻ buôn người bất hợp pháp mà nhà nước csVN luôn tìm cách dối trá che đậy. Nếu cuộc kiện cáo này còn kéo dài nơi pháp đình của nước Hoa Kỳ tự do và báo chí có dịp khui thêm ra các ngõ ngách lừa đảo đưa dân VN đi làm nô lệ thì e rằng nhà nước VN phải cúi đầu nhục nhã nhận tội. Một điều ai cũng biết - chính quyền sở tại cũng như người VN sống tại nước ngoài, mọi người rõ ràng nhìn thấy cánh tay vươn dài của một hệ thống buôn người trái phép của csVN chính là những tòa đại sứ, lãnh sự VN ở nước ngoài. Đối với hạng người này chỉ biết có tiền, tiền và tiền…, và họ sẵn sàng hành hạ dân của mình sống ở nước ngoài để nhận được tiền đưa tay. Ai đang ở Mã Lai luôn biết rõ rằng khi gọi điện thoại vào sứ quán VN thì cả ngày không có ai chịu bắt máy nghe.

Tạm kết

Tiền đề viết cho chủ đề bài này: Phải chăng kẻ chiến thắng cam tâm tình nguyện đi làm „lao nô“ cho quân thù? cho thấy điều ấy đã trở thành hiện thực ngay trên quê hương của đế quốc Mỹ. Rồi kẻ chiến thắng, được gọi là cs Bắc Việt phải cúi đầu chịu nhận án xử từ chiếc búa công lý tại toà án Mỹ.

Ký giả Lise Olsen phải là một người rất am tường về Việt Nam cũng như về kế hoạch buôn người trái phép của csVN để tố cáo “kẻ chiến thắng” với những lời lẽ đanh thép. Thiết tưởng rằng nếu chúng ta thêm lời bình luận vào cũng bằng thừa.

Nơi đây chúng ta nên đặt câu hỏi cho người cs Bắc Việt: Đâu rồi chiến thắng thần thánh của 30 tháng 4 năm 1975? Đâu rồi lý tưởng giải phóng đánh đuổi thực dân, chống lại bóc lột của tư bản? Đâu rồi một thiên đường cộng sản xã hội chủ nghĩa luôn hão huyền hứa hẹn cho dân tộc VN từ 66 năm nay?

Không lẽ người cộng sản VN đang phản bội lại lý tưởng cao quý của mình để dã tâm trở thành một kẻ mang chính dân mình bán đi làm nô lệ cho những kẻ tử thù đã thất bại khi đối địch trong cuộc chiến như đế quốc Mỹ và thực dân Pháp, nếu thêm các Đồng Minh tư bản tự do khác vào nữa như Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Mã Lai…? Hoặc diễn tả theo cách khác: việc buôn người cho kẻ thù tư bản là nguồn lợi nhuận duy nhất và đang là kế hoạch mũi nhọn cứu nguy nền kinh tế của người chiến thắng, cs Bắc Việt! Nếu đúng như thế thì Lao Nô đi bán sức mình cho bọn “Tư Bản giãy chết” nước ngoài đang trở thành người “Con Cả rất tốt bụng” nằm trong diện kinh tế vĩ mô “giàu nhanh mà nhàn” của nhà nước csVN. Đểu cáng đến mức tận cùng lúc được nghe từ cửa miệng một vị quan to ở Hà Nội phán ra rằng: “Đấy, nhà nước thật lòng muốn giúp dân xóa đói giảm nghèo, cải thiện cuộc sống cho họ!”.

Một câu hát trong bản nhạc Chiều Tây Đô được phép tạm kết cho bài viết này: “… Bao năm giải phóng như thế này phải không anh ?”.

… với vài phút mặc niệm cho ngày 30/4/1975

Thứ Năm, 21 tháng 4, 2011

Ghi chép cuối cùng về “ Người Cuối Cùng “



Ghi chép cuối cùng về “ Người Cuối Cùng “
Nhà vắng. Bàn không. Chiếc lá phơi
Uống khan ly rượu nghẹn bờ môi .
Gục đầu nhìn xuống bàn tay bẩn .
Cát bụi vườn ai lấm chỗ ngồi.
( Uống rượu một mình- Trần văn Sơn)

1. Tháng 10 năm 2007, tôi viết bài “ Người Cuối Cùng ( the Last Man ) “ kể câu chuyện thật đẹp và cảm động về tình bạn của một nhóm anh em bằng hữu khiến nhiều người chú ý :
Họ có tất cả là 14 người, cùng sinh năm 1920, trong cùng một thành phố , Wichita. Lớn lên với nhau ở cùng một khu phố nghèo, cùng chia sẻ với nhau những kỷ niệm ngọt ngào thời thơ ấu, cùng học với nhau một trường từ Tiểu Học, rồi Trung học và cùng tốt nghiệp năm 1937. Rời ghế nhà trường trung học, những chàng trai 18 tuổi còn đang không biết phải hướng tương lai mình về đâu , không biết phải làm gì để chứng tỏ mình là những thanh niên cường tráng, đầy ắp nhựa sống nhưng họ đã sớm nghĩ đến những bất trắc của cuộc sống, của ngày mai đang rộng mở ngòai kia với bao nhiêu đe dọa. Và họ quyết định dựa vào nhau để cùng bước chân vào tương lai. Sau khi đã trải qua bao nhiêu năm bên nhau ở cùng một khu phố, ở cùng một mái trường, họ có quá nhiều điều chung khiến khó có ai trong số 14 người ấy nghĩ đến một ngày họ không còn có nhau. Thế là họ mượn ý kiến của những cựu binh thế chiến thứ nhất ( WW I) để gọi nhau bằng cái tên “ The Last Man’s Club “. Một “ bản hiến chương “ của nhóm ra đời. Điều 1 : Mỗi năm sẽ có một buổi gặp mặt mọi người cho đến khi không có ai sống còn để tham dự. Điều 2 : tất cả mọi thành viên còn sống phải tham dự, dù ở bất cứ nơi đâu. Nếu không thể tham dự được, phải thông báo cho nhau biết lý do. Điều 3: Nơi gặp mặt nhất thiết phải là thành phố Wichita, nơi họ sinh ra và lớn lên, và thời điểm phài là thời điểm linh thiêng và ý nghĩa nhất , ngày 29 tháng 12 hàng năm. Các điều khỏan tiếp theo quy định những họat động trong buổi gặp mặt, việc tu sửa bản Hiến chương phải hội đủ ít nhất 3 phần tư số thành viên còn sống. Cuối cùng, bản Hiến Chương được ký đúng ngày 29 tháng 12 năm 1937 với chữ ký của 14 thành viên của nhóm.
Đến nay ( năm 2007) đã 70 năm từ ngày nhóm được thành lập, và chỉ còn một người duy nhất sống sót, Người Cuối Cùng như cái tên gọi của nhóm 14 người. Kẻ may mắn – hay không may mắn – ấy, năm nay đã 87 tuổi. . . . “
Ngày thứ Bẩy , 16 tháng 3 năm 2011, Người Cuối Cùng trong số 14 người bạn ấy đã lặng lẽ qua đời trong một căn nhà nhỏ ở Wichita, Kansas, thành phố mà 14 người bạn đã cùng được sinh ra, lớn lên, rồi cũng từ đó họ bay nhảy khắp bốn phương trời để rồi khi cuối đời, ai cũng cố gắng tìm cách trở về để được chết nơi họ sinh ra. Một người láng giềng đã phát hiện ra cái chết của ông già khi không thấy ông ra nhặt tờ báo trước sân nhà mỗi sáng như lệ thường.
Người Cuối Cùng thọ 90 tuổi. Trong căn phòng nhỏ nơi ông sống những ngày cuối đời , ngòai bản hiến chương được lồng trong khung gỗ cũ đã lên nước có thủ bút của 14 người bạn thuở niên thiếu, tập kỷ yếu đầy những hình ảnh kỷ niệm của 70 năm, còn có chai rượu Champagne một lít rưỡi phủ đầy bụi bậm , phần thưởng của 13 anh em đã qua đời gởi đến Người Cuối Cùng.
Họ đã giao hẹn với nhau, người nào trở thành kẻ duy nhất sống sót, phải mở chai rượu uống mừng cho sự may mắn của mình và ngậm ngùi cho sự kết thúc không thể tránh khỏi của kiếp người. Nhiều năm trước, khi chỉ còn 2 trong số 14 người sống sót, họ đã ngồi bên nhau trầm tư không biết ai là người sẽ phải mở chai rượu đầy ắp kỷ niệm. Nhưng , họ biết chắc một điều, người cuối cùng ấy sẽ chết ngay sau khi chai rượu được mở. Ngày 4 tháng 7 năm 2007,một trong hai người còn sống sót ấy qua đời. Người Cuối Cùng ngồi ngậm ngùi nhìn chai rượu sau khi dự lễ tang của bạn mình. Ông đã chính thức mang danh hiệu Người Cuối Cùng của 14 anh em bằng hữu. Khi ấy, ông đã tự hỏi mình . Tôi là người sống lâu nhất. Nhưng để được gì ngòai nỗi cô đơn vô tận ? Dù Bản Hiến Chương quy định rằng người cuối cùng phải mở chai rượu, nhưng ông quyết định khác đi. Giây phút này đây ông là người duy nhất có quyền sửa đổi hiến chương vì không ai còn sống để tranh cãi. Chai rượu này sẽ được giữ nguyên, và nó sẽ được chôn theo ông xuống mồ giây phút ông nằm xuống.
4 năm trước, tôi đã viết về ông : “The Last Man cầm lấy chai champagne, rồi lại khẽ khàng để xuống bàn, im lặng. Ông đưa tay đỡ gọng kính lão nặng nề đang trễ xuống sống mũi hay một cử chỉ cố che dấu đôi dòng lệ gìa nua hiếm hoi đang muốn chảy ra khỏi hốc mắt sâu như hố thẳm thời gian. Hồi tưởng lại 70 năm những lần gặp mặt , âm thanh rộn ràng của chai Champagne được mở làm ông thêm yêu đời bao nhiêu thì bây giờ, cầm chai Champagne cuối cùng phần thưởng dành cho người cuối cùng , ông gìa lại sợ phải nghe cái âm thanh réo rắt ấy của kỷ niệm. Ông biết, chẳng bao lâu nữa, ông sẽ đi theo những người bạn thân quý của mình. . . “
Người Cuối Cùng nay đã xum họp với bạn bè ở bên kia thế giới. Con cháu ông có chôn theo quan tài chai rượu Champagne nặng một lít rưỡi phủ đầy bụi bậm của thời gian như ý nguyện của ông hay không có lẽ cũng chẳng có gì quan trọng .
Cái chết đã giải thóat cho Người Cuối Cùng khỏi nỗi cô đơn thật đáng sợ.
2.
Hơn ai hết, tôi thấu hiểu nỗi cô đơn đáng sợ ấy. Tôi là người sống lâu nhất. Nhưng để được gì ngòai nỗi cô đơn vô tận ?
14 anh em bằng hữu ấy đã từng cùng nhau trải qua một cuộc chiến tranh ( Đệ nhị thế chiến ). Khi nước Mỹ nhập trận, tất cả họ đều lên đường theo tiếng gọi của tổ quốc. Những cuộc gặp gỡ hàng năm đành tạm thời bị hủy bỏ. Sau chiến tranh, may mắn thay không ai bỏ mình nơi chiến địa, dù có kẻ phải mang thương tích trên người . Trở về, họ lại nối kết sự liên lạc như ngày xưa.
Họ cũng đã từng cùng nhau trải qua những thời kỳ kinh tế suy thóai, nạn thất nghiệp trầm trọng, nhưng họ vẫn có nhau, nương tựa, an ủi nhau vượt qua những trắc trở , bất an trong đời sống. Trong ngần ấy năm, những cuộc hội ngộ hàng năm vẫn đều đặn được tổ chức nơi thành phố quê hương ( Wichita, Kansas ). Kẻ ở xa xôi đến đâu, vẫn “ đến hẹn lại lên “. Người nào không về được đều gởi thư, gởi thiệp hoặc điện thọai vào đúng giây phút xum họp.
Kể từ ngày 4 tháng 7 năm 2007, trong tổng số 14 bằng hữu, chỉ còn được 1 người.
Trong ngày hội ngộ hàng năm, cũng tại nơi hẹn quen thuộc , Người Cuối Cùng ngồi một mình, nhìn chung quanh 13 chiếc ghế trống. Trước mặt ông, chai rượu Champagne đầy bụi, tấm khung kính lộng bản hiến chương có thủ bút quen thuộc của những người bạn và tập kỷ yếu chứa những tấm hình đen trắng bạc màu vì thời gian.
Chỉ thương chiếc ghế còn bỏ trống
Bạn không về nữa biết ai ngồi
Biết đến khi nao mà hò hẹn
Hay là tay trắng sẽ buông xuôi?
( Thơ Trần Kiêu Bạc )
3.
Hãy tưởng tượng những chiếc ghế đã bị bỏ trống, những chiếc ghế sẽ bị bỏ trống. Và đôi mắt già nua nhìn đăm đăm vào khỏang không, như cố tìm trong đó những hình dáng thân quen của bằng hữu.
Hình ảnh cô đơn ấy thật buốt lòng.
Nhiều năm trước, những người bạn của tôi cũng đã ký tên vào một chai rượu với lời hẹn ước chung , mỗi khi “ đến hẹn “ ai cũng phải cố gắng để “ lại lên “. Nay chai rượu vẫn nằm quạnh quẽ ở góc phòng nơi một thành phố miền nam nước Mỹ. Bạn bè tôi vẫn mỗi đứa một nơi. Những khỏang cách tính bằng ngàn dặm. Lời ước hẹn “ lại lên “ không phải ai cũng làm được.
Trong chúng tôi, ai sẽ là người “ may mắn “ được hưởng chai rượu mang thủ bút của những người bạn cũ.
Nhưng rượu làm sao uống một mình được. Khi ấy, kẻ sống sót chắc cũng sẽ giống như ông già người Mỹ 90 tuổi mới chết vài hôm nay mà thốt lên. Tôi là người sống lâu nhất.
Nhưng để được gì ngòai nỗi cô đơn vô tận ?
Nhà vắng. Bàn không. Chiếc lá phơi
Uống khan ly rượu nghẹn bờ môi
Gục đầu nhìn xuống bàn tay bẩn
Cát bụi vườn ai lấm chỗ ngồi
( Uống rượu một mình- Trần văn Sơn)

T.Vấn