PHÁT GIÁC MỚI: Việt gian Công Sản bán đứt Hoàng sa - Trường sa cho Trung Cộng Hội thảo HS-TS ở Hanoi chỉ là hoả mù, trong hồ sơ nộp LHQ, VC đã vứt Hoàng Sa ngoài đường ranh 200 hải lý của VN; nghĩa là cắt Hoàng Sa cho Tàu từ lâu và vài đảo của Trường Sa ! Lê Công Phụng - Đỗ Mười - Lê Khả Phiêu là những tên lừa gạt ! san.com -Nguyễn Hữu Thống, Vấn đề Hoàng Sa Trường Sa theo Công Pháp Quốc Tế, 2008 -Nguyễn Thành, Đưa VC ra trước Toà Án Hình Sự Quốc Tế và Toà Án các Quốc Gia về những Tội Ác Nghiêm Trọng, bài nghiên cứu, các báo Tiếng Vang, CaliToday, Chánh Đạo, Gọi Đàn,... California, Hoa Kỳ, tháng 5 và 6 năm 2002; Hà Nội âm mưu dâng Hoàng Sa Trường Sa cho Bắc Kinh qua hồ sơ nộp LHQ, bài thuyết trình, Nam California, Hoa Kỳ, ngày 25 và 26.7.2009. Phát giác kinh hồn : Hội thảo HS-TS chỉ là quả mù, trong hồ sơ nộp LHQ, VC đã vứt Hoàng Sa ngoài đường ranh 200 hải lý của VN; nghĩa là cắt Hoàng Sa cho Tàu từ lâu và vài đảo của Trường Sa ! Lê Công Phụng - Đỗ Mười - Lê Khả Phiêu là những tên lừa gạt! * Hội thảo Biển Đông ở Paris là hỏa mù, Hà Nội đang tiến tới việc bàn giao Hoàng Sa Trường Sa cho Bắc Kinh qua LHQ LTG. Sau Hội Thảo Hoàng Sa Trưòng Sa ở Sàigòn ngày 25.7.2009 với tình trạng diễn giả “bị ngăn chặn” không đến được và Hội Thảo Biển Đông ở Hà Nội ngày 10.11.2009 với những lời tuyên bố lung tung, dối trá của Hà Nội [xin đọc trong bài viết dưới đây], Hà Nội lại vừa bày ra vụ Hội Thảo Biển Đông ở Paris ngày 27-28.2.2010 rồi hủy bỏ vào phút chót mà nếu có hội thảo thì trưởng đoàn Hà Nội cỡ Phó Chủ Tịch nước Nguyễn Thị Bình [Ngoa.i-trưởng, Trưởng đoàn MTDTGPMN “cò mồi”ở Hoà Đàm Paris 1973] thì kết quả thế nào mọi người đều thấy trước! Nói rõ hơn: Hội thảo cái gì nữa -Hoàng Sa Trường Sa của VN ai cũng biết; vấn đề lúc này là từ lâu đảng CSVN đã dâng cho đảng CSTH và nay thì Hà Nội đang hoàn tất việc bàn giao cho Bắc Kinh qua Luật Biển LHQ và tung đủ thứ tin tức hỏa mù trong đó có hội thảo chẳng qua để mọi người không chú ý tới 2 cái hồ sơ xúc tiến việc bàn giao có nhiều khả năng sẽ được Ủy Ban Thềm Lục Địa LHQ chấp thuận nay maị Học gỉa Vũ Hữu San, chuyên gia về Biển Đông, tác gỉa “Địa Lý Biển Đông với Hoàng Sa Trường Sa”, nhận xét về hồ sơ Hà Nội nộp LHQ ngày 6 và 7.5.2009 để giải quyết vấn đề Biển Đông như sau: “Hà Nội đã lùi bước khi vẽ hải đồ nộp LHQ. Dân chúng VN đừng bao giờ nghe chúng nói, hãy nhìn những gì chúng làm. Nếu xem hải đồ do Hà Nội nộp LHQ, chúng ta sẽ thấy: 3.4 biển Hoàng Sa nằm trong hải-phận Tàu; 4.5 biển Trường Sa không còn trong hải-phận VN...Hà Nội đã công khai vẽ hải đồ và chính thức nộp cho LHQ. Từ nay, VN cãi gì ngược lại về hải phận cũng không được... Trung Cộng sẽ dùng hải đồ mà VN đã nộp LHQ để đàm phán thì số phận Hoàng Sa Trường Sa coi như xong!” Cả 2 hồ sơ của Hà Nội đều được Ủy Ban Thềm Lục Địa thông qua bước đầu ở khóa họp 24 cuối năm 2009, sẽ được giải quyết tiếp ở khóa họp 25 khai mạc vào ngày 15.3.2010 sắp tới và nếu chúng ta không tìm được cách ngăn chặn thì Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt sẽ vĩnh viễn rơi vào tay bành trướng Bắc Kinh qua chính Luật Biển LHQ. Sau khi đọc Thông Cáo của Ủy Ban Thềm Lục Địa kết thúc khóa họp 24 vào ngày 11.12.2009 thông báo việc hồ sơ Hà Nội đã được chấp thuận bước đầu, người viết thực hiện ngay bài cảnh báo dưới đây và dự tính phổ biến vào dịp Tưởng Niệm Chiến Sĩ Hoàng Sa 19.1 năm nay do GiaĐDình Hải Quân Hàng Hải VNCH tổ chức long trọng ở nhiều nơi trên thế giớị Nhưng một trận cúm kéo dài khiến người vìết không thực hiện được mong muốn và bài viết chỉ vừa tạm hoàn tất để kịp gửi cho Đặc San Luật Khoa phát hành vào dịp Hội Ngộ Cựu Sinh Viên Luật Khoa Sàigòn Toàn Cầu ở Houston, Texas, Hoa Kỳ, 2-4.4.2010 và trước tin tức loại hỏa mù [kiểu Hội Thảo Biển Đông ở Paris] người viết xin được phổ biến bài viết để cảnh báo: Hà Nội đang hoàn tất việc giao Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho Bắc Kinh qua Luật Biển LHQ; tất cả những tin tức này nọ hay hội họp ồn ào về vấn đề Biển Đông của Hà Nội chỉ là hỏa mù mà thôi! ???? Cựu Sinh Viên Luật Khoa Sàigòn ở hải ngoại cảnh báo: Hội thảo Biển Đông ở Paris là hỏa mù, Hà Nội đang tiến tới việc bàn giao Hoàng Sa Trường Sa cho Bắc Kinh qua LHQ Tường trình - Nhận định: CSVLK Nguyễn Thành Ị Tin Liên Hợp Quốc Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa LHQ [từ đây viết là Ủy Ban=Commission] kết thúc khoá họp 24 về thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở trụ sở LHQ, New York, vào ngày 11.12.2009. Thông Cáo rất dài của Ủy Ban đã được phổ biến trên trang nhà “UNCLOS” và người viết bài này xin tóm lược một số điều cần biết và liên quan tới VN dưới đâỵ [1] 1. Ủy Ban cho biết đã nhận được 35 hồ sơ mới cho khóa họp 24, từ 10.8.2009 đến 11.9.2009; trong số này có 2 hồ sơ của Hà Nộị Tuy là khóa họp 24 nhưng là khóa họp đầu tiên dài nhất của Uỷ Ban về thềm lục địa mở rộng sau hạn kỳ nộp đơn 10 năm, ngày chót là 13.5.2009. Vì số lượng hồ sơ quá nhiều nên Ủy Ban đã phải họp thêm 2 lần, mỗi lần 1 tuần lễ vào đầu tháng 11 và 12.2009. Tuy vậy, Ủy Ban vẫn chưa giải quyết được gì về 35 hồ sơ mới nàỵ Ủy Ban đã dành gần hết khóa họp để giải quyết 5 hồ sơ cũ [của Pháp, Barbados, Anh và North Ireland, Indonesia, Nhật] tồn đọng từ các khóa họp cũ. Dù cả 5 hồ sơ này đều đã được các Tiểu Ban [Sub-Commission] thành lập bởi các khóa họp cũ xem xét và đề nghị khuyến cáo, Ủy Ban chỉ giải quyết dứt điểm được 1 hồ sơ của Pháp, nộp từ 2 năm trước. Bốn hồ sơ cũ còn lại, Ủy Ban có giải quyết được thì sớm nhất cũng cuối năm 2010 hay 2011. Ủy Ban đã nghe đa.iđiện 18 nước trình bầy về hồ sơ mở rộng thềm lục địa và VN là nước duy nhất trong số 18 nước này đã nhờ chính chuyên viên của Ủy Ban Thềm Lục Địa giúp soạn thảo hồ sợ Ngày 27.8.2009, đại diện Hà Nội trình bầy trước Uỷ Ban về hồ sơ nộp ngày 6.5.2009 liên quan tới Nam Biển Đông, trong đó có Trường Sa và ngày 28.8.2009 trình bầy về hồ sơ ngày 7.5.2009 liên quan tới Bắc Biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Vịnh Bắc Việt. 2. Về Thủ Tục Cứu Xét, muốn mở rộng thềm lục địa ngoài 200 hải lý, nước ven biển phải nộp hồ sơ cho Ủy Ban. Hồ sơ gồm bản đồ với toạ độ rõ ràng và cách tính để qui định đường ranh thềm lục địa ngoài 200 hải lý theo qui định của Luật Biển LHQ. Tổng Thư Ký LHQ phải thông báo bằng văn bản cho các nước hội viên Luật Biển khi nhận hồ sơ và phổ biến văn bản này trên trang nhà LHQ. Để giải quyết hồ sơ, Ủy Ban phải chỉ định Tiểu Ban gồm 7 người để xem xét. Tiểu Ban họp riêng khi xét hồ sơ, có thể yêu cầu nước liên hệ cung cấp thêm tài liệu hay thay đổi hồ sơ, phải thông báo cho nước liên hệ biết kết luận về hồ sơ và đọc cho nước này biết các khuyến cáo [Recommendations] của Tiểu Ban trước khi đệ trình Ủy Ban. Nước liên hệ được quyền tham dự buổi họp của Uỷ Ban để trình bầy quan điểm về khuyến cáo của Tiểu Ban. Ủy Ban cũng có thể yêu cầu nước liên hệ thay đổi một phần hay toàn bộ hồ sơ cho hợp với Luật Biển. Nếu Ủy Ban không có ý kiến khác thì khuyến cáo của Tiểu Ban sẽ là quyết định của Uỷ Ban. Quyết định của Ủy Ban có giá trị chung quyết và ràng buộc các nước liên hê.. 3. Uỷ Ban hiện nay do Đại Hội Đồng các nước hội viên Luật Biển [họp năm 2007] bầu ra, gồm 21 ủy viên, nhiệm kỳ 5 năm [2007 - 2012]. Như thế, Ủy Ban chỉ có thể thiết lập tối đa 3 Tiểu Ban nên việc giải quyết hồ sơ rất chậm và thường mất vài năm. [Hồ sơ Brazil nộp ngày 17.5.2004, Ủy Ban giải quyết 9.4.2008, mất 4 năm; hồ sơ của Cuba nộp 1.6.2009 -tức sau 13.5.2009 có 17 ngày, Ủy Ban quyết định năm 2030 mới giải quyết, tức 20 năm nữa]. Điều cần lưu ý ở đây là trong số 21 ủy viên của Ủy Ban đương nhiệm có 3 đại diện của 3 nước CS: Trung Cộng, Bắc Hàn và Ngạ Điều cần lưu ý nữa là trước khi Uỷ Ban họp để cứu xét hồ sơ thì các nước hội viên Luật Biển họp trước để thông qua chương trình nghị sự của Uỷ Ban. [2] Hơn nữa, theo Luật Biển, Uỷ Ban chỉ có 2 nhiệm vụ: a] Cứu xét và chấp thuận hồ sơ thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý và b] Cố vấn về khoa học và kỹ thuật biển cho các nước ven biển, nếu được yêu cầụ [3] Tóm lại, Hà Nội đang ở tư thế cầm quyền và hội viên Luật Biển để độc quyền nộp hồ sơ về thềm lục địa mở rộng VN và quyền “nhào nặn” hồ sơ sau khi nộp. Trong số 21 ủy viên của Ủy Ban có đại diện của Nga, Trung Cộng và Bắc Hàn là một lợi thế khác của Hà Nộị Hà Nội đã nghiên cứu kỹ Luật Biển và nhận ra lợi thế và “kẽ hở” của Luật Biển. Hà Nội bất ngờ nộp hồ sơ cho LHQ vào phút chót là do Bắc Kinh hối thúc và Nguyễn Tấn Dũng là kẻ hoàn tất tiến trình bàn giao Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho Bắc Kinh. IỊ Về 2 hồ sơ Hà Nội nộp LHQ Ạ Hà Nội không mở rộng Thềm Lục Địa VN, chỉ xác nhận Vùng Đặc Quyền Kinh Tế. [4] [5] Học gỉa Vũ Hữu San, chuyên gia hàng đầu về Hoàng Sa Trường Sa, sau khi đọc hồ sơ Hà Nội đã lên án: “Hà Nội đã lùi bước khi vẽ hảiđdồ nộp LHQ. Nếu xem hảiđdồ do Hà Nội vẽ để nộp LHQ, chúng ta sẽ thấy: 3.4 biển Hoàng Sa nằm trong hải phận Trung-quốc; 4.5 Trường Sa không còn trong hải phận VN... Hà Nội đã công khai vẽ hảiđdồ và chính thức nộp cho LHQ. Từ nay, VN cãi gì ngược lại về hải phận cũng không được... Tàu sẽ dùng hảiđdồ mà VN đã nộp LHQ để đàm phán thì số phận Hoàng Sa Trường Sa coi như xong!” 1. Theo Luật Biển, ngày 13.5.2009 là ngày chót để nộp hồ sơ về Thềm Lục Điạ mở rộng, không phải để xác định Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý. Hà Nội đã bỏ lơ suốt 10 năm [từ 13.5.1999 đến 13.5.2009], vào những ngày chót mới nộp hồ sơ nhưng thay vì xin mở rộng Thềm Lục Địa VN lại xác nhận Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý. Chủ quyền của nước ven biển đối với 2 Vùng này khác hẳn nhau Theo Luật Biển, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý là để đánh cá và thuộc chủ quyền tuyêt đối và đương nhiên của các nước ven biển, không cần phải đăng ký. Hà Nội đã đăng ký Vùng Đặc Quyền Kinh Tế này từ ngày 12.11.1982 rồi Thềm Lục Địa rộng 200 hải lý theo Luật Biển là vành đai mở rộng của lãnh thổ và có thể kéo dài ra ngoài 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục địa [continental margin] nhưng không được qúa 350 hải lý. Nước ven biển có độc quyền khai thác khoáng sản và nguyên liệu không phải sinh vật sống ở vùng ngoài 200 hải lý xin mở rộng này 2. Hà Nội ký Luật Biển ngày 10.12.1982 và phê chuẩn ngày 25.7.1994, tức rất sớm, tất phải biết rõ những điều trên đâỵ Khi Trung Cộng lấn chiếm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý của VN, bắn giết bừa bãi ngư dân VN hành nghề hợp pháp trong vùng và dùng võ lực xâm lăng Trường Sa, Hà Nội có trách nhiệm phải nhờ các cơ quan thẩm quyền phân xử nhưng Hà Nội chỉ phản đối xuông cho có phản đối Điều 8 Luật Biển LHQ qui định: ĐDường căn-bản [Baseline] là lằn nước thuỷ triều xuống thấp nhất. -Nô.i-hải [Internal water] là vùng biển bên trong đường căn-bản. -Lãnh-hải [Territorial water] rộng 12 hải lý ngoài đường căn-bản. -Hải-phận [Contiguous Zone] là vùng biển ngoài lãnh-hảị -Vùng đặc quyền kinh tế [Exclusive Economic Zone] 200 hải lý, tính từ đường căn bản ra khơị [Xin đọc bản đồ LHQ qui định chiều rộng các Vùng biển trên đây để thấy Hà Nội không mở rộng Thềm Lục Địa VN và chỉ xác định Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý] -Thềm Lục Địa [Continental Shelf] cũng rộng 200 hải lý tức trùng điệp với Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý. -Thềm Lục Địa mở rộng [Extended Continental Shelf]: Từ 13.5.1999, Luật Biển cho phép các nước ven biển thời hạn 10 năm để xin mở rộng thềm lục địa đến tối đa 350 hải lý [còn gọi là nền lục địa=continental margin] nếu đáy biển là sự tiếp nối tự nhiên từ đất liền ra biển [như trường hợp đáy biển của VN chạy thoai thoải từ đất liền ra khơi]. -Cần phân biệt: Lãnh hải rộng 12 hải lý; Hải phận là vùng biển từ lãnh hải ra khơi nên có thể rộng tối đa 350 hải lý. 3. Biển Đông rộng gần 1 triệu 100 ngàn hải lý vuông, Vịnh Bắc Việt chiếm hơn 1.3 diện tích Biển Đông và bờ biển VN dài 3,260 km, trải qua 13 vĩ độ, từ vĩ độ 21 N đến vĩ độ 8 N. Nếu Thềm Lục Địa VN mở rộng tới 350 hải lý thì hải phận VN rộng gấp 4 lần đất liền và gồm Hoàng Sa Trường Sa vì khi đó hai quần đảo này nằm gần trọn trên Thềm Lục Địa mở rộng 350 hải lý của VN. Cũng cần biết là 2 nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa chỉ có một phần rất nhỏ nằm cách bờ biển VN 200 hải lý, hầu hết các đảo của hai nhóm này đều nằm rất xa ngoài khơi, có nơi cách bờ biển VN tới 400 hải lý. Hà Nội biết rõ điều này nên khi xác nhận Thềm Lục Địa VN chỉ 200 hải lý là có ý đồ gạt Trường Sa Hoàng Sa ra ngoài hải phận VN. B. Hà Nội gạt Trường Sa ra ngoài hải phận 200 hải lý của VN 1. Hà Nội không xin mở rộng thềm lục địa VN ra 350 hải lý mà VN có đủ điều kiện để được hưởng và xác nhận hải phận VN có 200 hải lý và bản đồ kèm theo hồ sơ 6.5.2009 thì gạt hầu như toàn bộ Trường Sa ra ngoài hải phận VN. [Bản đồ hồ sơ 6.5.2009 của Hà Nội, đường ranh 200 hải lý của VN mầu đỏ bên trái] Trung Cộng ký Luật Biển LHQ ngày 10.12.1982 và phê chuẩn ngày 7.6.1996 nhưng chưa bao giờ tôn trọng Luật Biển. Trung Cộng còn tự ban hành luật biển riêng vào năm 1992 và công bố bản đồ hình lưỡi bò chiếm 80% Biển Đông, bất chấp các qui định của Luật Biển LHQ. Bản đồ lưỡi bò Trung Cộng lấn sát bờ biển VN ở nhiều nơi, có nơi chỉ cách bờ biển VN 40 hải lý, vi phạm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý của VN, chạy xuống tận đảo Natuma của Nam Dương, tức cách lục địa Trung Hoa gần 1000 hải lý, trong lúc Luật Biển qui định thềm lục địa mở rộng cũng không được vượt qúa 350 hải lý. 2. Trung Cộng không nộp hồ sơ mà chỉ cho đại diện tại LHQ gửi công hàm ngày 8.5.2009 cho Tổng Thư Ký LHQ để yêu cầu Ủy Ban không cứu xét hồ sơ của VN và Mã Laị Kèm với công hàm là bản đồ lưỡi bò mà Trung Cộng biết chắc Uỷ Ban sẽ không thể nào chấp thuận được vì nó trái ngược với các qui tắc của Luật Biển LHQ. Uỷ Ban Thềm Lục Địa không có quyền chia ranh giới biển. Nguyên tắc của Uỷ Ban là khuyến khích các nước liên hệ tự giải quyết việc phân ranh với nhaụ Nếu có tranh chấp giữa 2 hay nhiều nước thì Uỷ Ban có thể không chấp thuận hồ sơ của cả 2 hay nhiều nước. 3. Tuy thế, vấn đề chưa hẳn phải kết thúc ở đâỵ Các nước liên hệ còn quyền đưa vấn đề ra trước Toà Án Quốc Tế chuyên về biển ở Hamburg, Đức-quốc hay Toà Án Quốc Tế ở La Hague, Hoà Lan. Đưa ra Toà Án Quốc Tế La Hague thì cũng như không, chẳng giải quyết được gì vì theo quy chế của Toà này thì hai bên tranh tụng có quyền “không thi hành” phán quyết của Toà cho dù chính họ nhờ Toà phân xử. Trái lại, phán quyết của Toà Án Quốc Tế Hamburg thì có gía trị chung quyết và các bên tranh tụng phải chấp hành. Nhưng vấn đề là Hà Nội có dám tiến tới hay không? Điều này rất khó xảy ra lúc này vì ai cũng biết đảng CSVN hiện nay hoàn toàn lệ thuộc đảng CSTH và Bắc Kinh bảo sao thì Hà Nội cúi đầu làm vậy C. Hà Nội gạt Hoàng Sa ra ngoài hải phận 200 hải lý VN. 1. Ngày 7.5.2009, Hà Nội nộp hồ sơ liên quan đến phía Bắc Biển Đông, tức Vịnh Bắc Việt và Hoàng Sa Tuy lời mở đầu hồ sơ này tuyên bố Hoàng Sa Trường Sa là của VN và cũng nói tới việc mở rộng thềm lục điạ ngoài 200 hải lý nhưng phần chính văn bản thì lờ đi và rõ rật nhất đường ranh 200 hải lý khi gặp nhóm đảo Hoàng Sa thì dừng lại vì 2 bên đã giải quyết qua hiệp ước lén lút ngày 25.12.2000 rồị Bản đồ trong hồ sơ 7.5.09 của Hà Nội [dưới] vẽ vùng mở rộng hình tam giác ngược, đỉnh nhọn ở dưới, cạnh đáy nằm nghiêng ở trên gạt Hoàng Sa ra ngoài, tức đã giải quyết rồỉ 2. Đường ranh giới 200 hải lý VN màu đỏ chạy từ vĩ độ 10 N lên phía Bắc, khi vừa gặp quần đảo Hoàng Sa ở vĩ độ 15 N thì đột ngột dừng lại Đường vẽ ở bản đồ của Hà Nội không chính xác; Hà Nội cố ý vẽ đường ranh 200 hải lý này nhô lên tận vĩ tuyến 16 N, trong lúc hồ sơ ghi đường này dừng lại ở 15 N 067, tức chỉ nhô khỏi 15 N một chút, không thể tới vĩ tuyến 16 N được. 3. Vùng biển Hà Nội xin mở rộng ngoài 200 hải lý trong hồ sơ 7.5.2009 có hình tam giác ngược, đỉnh rất nhọn phía dưới cách xa nhóm Trường Sa, cạnh đáy nằm chếch ngang ở phía trên vừa đụng nhóm Hoàng Sa thì dừng lại vì nhóm đảo Hoàng sa nằm trọn từ vĩ độ 15 N đến 17 N, tức Hoàng Sa Trường Sa đều ở ngoài hình tam giác mở rộng của Hà Nội Nói cách khác, vùng biển Hà Nội xin mở rộng ngoài 200 hải lý hình tam giác ngược chỉ là một vùng nước biển, dưới cố tránh đụng Trường Sa, trên cố né chạm Hoàng Sa, tức chẳng ảnh hưởng gì tới phần chính của hai quần đảo này hay đụng chạm đôi chút đến nhóm Trường Sa thì cũng chỉ là một vài đụn hay đá mà thôi Hay theo chuyên gia về Hoàng Sa Trường Sa Vũ Hữu San thì: “VN chỉ còn 1 đảo độc nhất là Tri Tôn trong số trên 100 đảo của nhóm Hoàng Sa,” và “VN chỉ còn đảo Trường Sa nổi và 2 đảo chìm, trong số trên 100 đảo nổi và chìm của nhóm Trường Sa” D. Hiệp ước 25.12.2000 phân định lại Vịnh Bắc Việt 1. Ngày 25.12.2000, Hà Nội và Bắc Kinh ký hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt, nhưng dấu kín nội dung trong nhiều năm tuy dư luận đã ầm ĩ từ trong nước ra hải ngoại là đảng CSVN đã dâng đảng CSTH 11 ngàn km2 vùng Vịnh Bắc Việt qua hiệp ước lén lút nàỵ Khi bản đồ [dưới đây] trong 1 hồ sơ mật của Hà Nội bị phát hiện thì giới nghiên cứu cho rằng Hà Nội đã dâng cho Bắc Kinh tới 20 ngàn km2 Vịnh Bắc Việt, chứ không chỉ 11 ngàn km2. [Bản đồ trong hồ sơ mật của Hà Nội về hiê.p-ước Vịnh Bắc Việt 25.12.2000 bị phát hiện] Trong số 21 điểm qui định trong bản đồ đính kèm hiệp ước 25.12.2000, ngoại trừ điểm 1 nằm ở vĩ tuyến 21 độ Bắc, tức cửa sông Bắc Luân [ranh giới tỉnh Móng Caí.VN và tỉnh Quảng Đông.TH], các điểm mốc từ số 2 đến số 21 đều lấn sâu vào bờ biển VN. Như điểm mốc 17 cách bờ biển VN 44 hải lý và cách đảo Hải Nam tới 73 hải lý; tức TH vượt trội VN 29 hải lý; sự phân chia không đều và cũng không giữa bờ biển với bờ biển hay đảo với đảo như Luật Biển qui đi.nh. 2. Trước dư luận lên án đảng CSVN lén lút dâng biển cho đảng CSTH ngày càng dữ dội, ngày 28.1.2002 Lê Công Phụng [Thứ-trưởng Ngoại Giao - Trưởng đoàn đàm phán về biên giới và phân định lại Vịnh Bắc Việt] lên tiếng thanh minh thì lại càng lộ ra việc đảng CSVN đã bán nước cho đảng CSTH từ lâu và Phụng thì dối gạt về Luật Biển LHQ và trách nhiệm chính trong vụ hiệp ước 25.12.2000. Theo Lê Công Phụng, chính TBT Đỗ Mười [năm 1993] và TBT Lê Khả Phiêu [1997] đã sang tận Bắc Kinh để “thoả thuận các nguyên tắc căn bản về biên giới và lãnh hải” với TBT Giang Trạch Dân. Phần Phụng thì dối gạt trắng trợn rằng y đã “căn cứ vào các qui định của Luật Biển LHQ và các nguyên tắc quốc tế và tập quán” trong lúc đàm phán với Bắc Kinh. Sự thực trái ngược hẳn lời Phụng nói với báo chí và sau đây là vài dẫn chứng: -Theo Luật Biển, nếu 2 bên không thể thỏa thuận được với nhau thì phân chia lãnh hải theo “đường trung tuyến” [median line]. Đường trung tuyến ở đây phải là đường giữa đảo Bạch Long Vĩ của VN và đảo Hải Nam của TH và khoảng cách phải bằng nhau giữa 2 đảo nàỵ Nhưng Phụng bất chấp điều luật này và chấp thuận đường phân chia cách Bạch Long Vĩ 15 hải lý và cách Hải Nam tới 55 hải lý, tức không đều nhau và TH vượt trội VN tới 40 hải lý. Bộ trưởng ngoa.i-giao Hà Nội Nguyễn Duy Niên còn “ngon” hơn khi tuyên bố: “Đường trung tuyến cách đảo Bạch Long Vĩ 15 hải lý, tức đảo được hưởng lãnh hải 12 hải lý, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế và Thềm Lục Địa được hưởng 3 hải lý.” -Luật Biển qui định đường trung tuyến phải chạy giữa 2 đường bờ biển hay giữa đảo với đảọ Phụng cũng bất chấp qui định này và chấp thuận đường trung tuyến giữa đảo Hải Nam TH với bờ biển VN, hy sinh đảo Bạch Long Vĩ của VN vì theo luật thì đường trung tuyến phải giữa đảo Bạch Long Vĩ VN với đảo Hải Nam TH. -Toà Án Quốc Tế, Án lệ Lybia kiện Malta [1985], đã phán quyết: Đảo dù lớn đến đâu cũng không bình đẳng với Lu.cđdi.a được và không cho đảo Malta được có hải phận rộng bằng lục địa nước Lybiạ Phụng đảo ngược Án lệ này khi cho đảo Hải Nam của TH có hải phận rộng hơn cả lục địa nước VN. 3. Theo giới hiểu biết thì Hà Nội và Bắc Kinh đều không có một lý do nào để phân định lại Vịnh Bắc Việt. Hiệp ước Constans ký kết tại Bắc Kinh ngày 16.6.1887 giữa đại diện Pháp [đô hộ VN lúc đó] và đại diện nhà Thanh [đô hộ TH] vẫn còn nguyên hiệu lực và hoàn toàn phù hợp với Luật Biển LHQ mà Hà Nội và Bắc Kinh đều đã ký kết. Ngày 12.11.1982, chính Hà Nội đã công bố lãnh hải VN vùng Vịnh Bắc Việt phải theo hiệp ước 16.6.1887, tức 63% diện tích Vịnh Bắc Việt thuộc về VN. Nhưng Bắc Kinh không chịu, buộc Hà Nội phải phân định lại vùng này và đảng CSVN do Lê Công Phụng đại diện đã ngoan ngoãn cúi đầu khuất phục và ký hiệp ước 25.12.2000. Hậu qủa của hiệp ước 25.12.2000 là VN đi từ 63% diện tích cũ xuống còn 53%. Theo nhà nghiên cứu Vũ Hữu San thì thực tế còn bi đát hơn nữa: TQ chiếm 55%, VN 45% là tối đa, tức VN mất 20% hay 20 ngàn km2 Vịnh Bắc Việt và vùng biển Hoàng Sa cũng về tay Trung Cộng qua hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt. Vì mất mát quá nhiều Hà Nội đã phải dấu kín hiệp ước 25.12.2000 và nay Nguyễn Tấn Dũng mưu toan “công khai hóa” qua hồ sơ nộp LHQ. IIỊ Một vài nhận xét 1. Công hàm 14.9.1958 của Phạm Văn Đồng và vấn đề chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa Trước hết, công hàm 14.9.1958 là một bằng cớ không thể chối cãi trong số biết bao hành vi bán nước của đảng CSVN từ khi đảng này du nhập vào VN. Sau khi Phạm Văn Đồng gửỉ Chu Ân Lai để nhìn nhận lãnh hải 12 hải lý Tàu, bao gồm cả Hoàng Sa Trường Sa của VN, Hà Nội dù có “cãi chầy cãi cối” đến đâu cũng không xoá đi được tội ác bán nước của đảng CSVN. Bút sa gà chết, gà ở đây là đảng CSVN, vì công hàm 14.9.1958 không thể làm mất chủ quyền VN đối với Hoàng Sa Trường Sa trước pháp luật. Vì thế, tuy thường dùng công hàm 14.9.1958 để tuyên bố lung tung về Hoàng Sa Trường Sa nhưng Trung Cộng thừa biết nó vô giá trị trước luật pháp. Nguyên tắc của hình luật phổ thông là: Không ai được quyền cho một vật mà mình không có. Huống hồ là Hoàng Sa Trường Sa, biển đảo của một nước, không những không phải “của” Đồng và Đồng còn biết chắc “chúng” thuộc về VNCH qua nhiều văn kiện có giá trị quốc tế còn lưu trữ. Chính vì biết rõ văn kiện 14.9.1958 vô hiệu trước luật pháp nên Trung Cộng chưa bao giờ dám nộp vào hồ sơ để tranh chấp Hoàng Sa Trường Sa trong khi đó Trung Cộng đã lập một hồ sơ với đầy đủ văn kiện, bản đồ nộp cho Ủy Ban Thềm Lục Địa để tranh chấp chủ quyền với Nhật về bãi đá ngầm Okinotori, phía Đông Biển Đông [East China Sea], một bãi đá nhỏ mà gía trị không thể nào so sánh với Hoàng Sa Trường Sa Giới học giả Trung-quốc cũng biết rõ như thế và Tiến Sĩ Lo Chi-Kin Trung-quốc từng thú nhận: “Bắc Kinh không bao giờ dám đưa những tranh chấp về hải đảo tại Biển Đông ra trước các cơ quan trọng tài quốc tế.” [6] Hà Nội cũng biết thế nên mới bày ra việc phân chia lại Vịnh Bắc Việt, ký hiệp ước 25.12.2000 để Trung Cộng lấn sâu vào hải phận VN [có nơi chỉ cách bờ biển VN 40 hải lý] và nay, nhân việc nộp hồ sơ về thềm lục địa mở rộng, Hà Nội đã không ngần ngại gạt Hoàng Sa Trường Sa ra ngoài hải phận 200 hải lý của VN và giải thích quanh cọ LS Nguyễn Hữu Thống, tác gỉa “Vấn đề Hoàng Sa Trường Sa theo Công Pháp Quốc Tế”, đã nhận xét chính xác về công hàm 14.9.1958 như sau: “Trên phương diện luật pháp và hiến pháp, vấn đề lãnh thổ quốc gia thuộc chủ quyền của quốc dân do Quốc Hội đại diện. Chính phủ là một cơ quan hành pháp có nhiệm vụ chấp hành các đạo luật, hiệp ước và công ước do Quốc Hội phê chuẩn và ban hành. Do đó thủ tướng chính phủ không có tư cách và thẩm quyền chuyển nhượng chủ quyền lãnh thổ.” [7] 2. Nguyễn Tấn Dũng hoàn tất tiến trình dâng Hoàng Sa Trường Sa cho Trung Cô.ng. Công hàm 14.9.1958 thì vô hiệu và hiệp ước 25.12.2000 thi vẫn phải lén lút nên Luật Biển LHQ là cơ hội “ngàn năm một thưở” để Nguyễn tấn Dũng hoàn tất tiến trình dâng Hoàng Sa Trường Sa cho đảng CSTH của đảng CSVN, khởi đi từ công hàm 14.9.1958 của Phạm Văn Đồng và rất có thể trước nữa, giữa HCM và Mao Trạch Đông. Như trên đã nói, học gỉa Vũ Hữu San cho rằng: “Hà Nội đã lùi bước khi vẽ hảiđdồ nộp LHQ... Nếu xem hảiđdồ do Hà Nội vẽ để nộp LHQ, chúng ta sẽ thấy: 3.4 biển Hoàng Sa nằm trong hải phận Trung-quốc; VN chỉ còn 1 đảo độc nhất là Tri Tôn trong số trên 100 đảo của nhóm Hoàng Sa; 4.5 biển Trường Sa không còn trong hải phận VN; VN chỉ còn đảo Trường Sa nổi và 2 đảo chìm, trong số hơn 100 đảo nổi, chìm của nhóm Trường Sa” Nhưng một phó thủ-tướng Hà Nội vẫn trắng trợn tuyên bố: “Tại vùng Trường Sa, ta được thêm 23 đảo ngầm dưới mặt biển, như vậy coi như một thắng lợi!” Vẫn theo Vũ Hữu San: “Hà Nội đã công khai vẽ hải đồ và chính thức nộp cho LHQ. Từ nay, VN cãi gì ngược lại về hải phận cũng không được. Hà Nội tuyên bố sẽ tìm mọi cách để giải quyết vấn đề Biển Đông và trong thời gian sắp tới, hai bên “cùng bàn bạc, đàm phán, phân định biên giới biển. Khi đó, Tàu sẽ dùng hảiđdồ mà VN đã nộp LHQ để đàm phán thì số phận Hoàng Sa Trường Sa coi như xong!” Sự thật thì Hà Nội đang mưu toan dâng trọn Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho Bắc Kinh qua hồ sơ nộp LHQ, không chỉ 3.4 Hoàng Sa, 4.5 Trường Sa Thật vậy, đường hải phận 200 hải lý ở bản đồ Hà Nội nộp LHQ không đúng với vĩ độ thực của nó. Hà Nội đã cố ý vẽ đường ranh 200 hải lý này nhô lên quá vĩ độ 16 N, trong lúc toạ độ thực của nó trong hồ sơ Hà Nội nộp LHQ ghi rõ ràng là nó dừng lại ở vĩ độ 15 N 067, tức nhô quá vĩ độ 15 N một chút, chứ không thể vượt quá cả vĩ độ 16 N như Hà Nội vẽ được. Nhóm đảo Hoàng Sa nằm trọn trong 3 vĩ độ, 15 N đến 17 N; đường ranh 200 hải lý VN dừng lại ở vĩ độ 15 N 067, tức Hà Nội gạt toàn bộ nhóm đảo Hoàng Sa ra ngoài hải phận 200 hải lý của VN. Theo Luật Biển, Uỷ Ban sẽ không cứu xét nếu hồ sơ bị phản đốị Hồ sơ của Hà Nội bị Bắc Kinh phản đối ngay sau khi nộp nhưng vẫn được Uỷ Ban cứu xét. Điều này chỉ có thể giải thích: Hoặc công hàm phản đối của Bắc Kinh đã không được Ủy Ban lý cứu xét vì cái bản đồ lưỡi bò bất hợp pháp của Trung Cộng hoặc Hà Nội và Bắc Kinh đã thay đổi hồ sơ sau khi nộp như Thủ Tục Cứu Xét cho phép. Vì lý do nào thì cũng chứng tỏ một điều là Hà Nội và Bắc Kinh đã nghiên cứu kỹ Luật Biển và Thủ Tục Cứu Xét và đang lợi dụng Luật Biển để dâng biển đảo cho Bắc Kinh. Bắc Kinh biết Uỷ Ban sẽ không lý tới phản đối của mình vì cái bản đồ hình lưỡi bò được vẽ bất chấp qui định của Luật Biển nhưng vẫn gửi công hàm phản đối để tung hoả mù và đánh lạc hướng dư luận. Hà Nội, trước sự đòi hỏi chính đáng từ trong nước đến hải ngoại nên không thể không nộp hồ sợ Hà Nội và Bắc Kinh đều biết rõ có quyền sửa đổi hay thậm chí thay đổi hồ sơ sau khi nộp và kết quả cuối cùng thì vẫn do 2 bên liên hệ quyết định vì, theo Luật Biển, Uỷ Ban hầu như chỉ đóng vai trọng tài điều đình hay hoà giải và nhất nhất đều phải tham khảo với đôi bên. 3. Việc mở rộng thềm lục địa và vấn đề chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa a] Tại hội nghị chuyên đề về Biển Đông ở Hà Nội ngày 10.11.2009, Vu.trưởng Ban Biên-giới Nguyễn Duy Chiến phát biểu: “VN là nước ven biển nên đã nộp báo cáo cho Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa để bảo vệ quyền của VN đối với thềm lục địa ngoài 200 hải lý” và “việc Ủy Ban này xem xét báo cáo không ảnh hưởng đến vấn đề chủ quyền biển đảọ” Qua lời Chiến, Hà Nội một lần nữa lại dối gạt và bóp méo Luật Biển, y hệt Lê Công Phụng khi ký hiệp định 25.12.2000 và Vũ Dũng, một thứ trưởng của Hà Nội, nói với báo chí về biên giới năm 2008. [8] [9] Thật thế, hồ sơ Hà Nội nộp LHQ sẽ gây thiệt hại vô tiền khóang hậu cho VN vì chẳng những trước mắt mất Hoàng Sa Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt qua Luật Biển mà hậu qủa tất yếu là rồi đây Trung Cộng có thể thôn tính VN dễ dàng bất cứ lúc nào khi đã khống chế được phía Đông VN! Quyền lợi cấp thiết và sinh tử của VN ở đây rõ ràng là mở rộng thềm lục địa ra 350 hải lý mà VN có đủ điều kiện theo Luật Biển để được hưởng và khi đó thì Hoàng Sa Trường Sa nằm gọn trên thềm lục điạ VN. Theo Điều 77 Luật Biển, quyền của các nước ven biển đối với thềm lục địa là một quyền tuyệt đối để thăm dò và khai thác dầu khí và như thế thì liệu các công ty dầu khí quốc tế có dám ký hợp đồng hàng chục tỷ với Trung Cộng để vào khai thác ở vùng biển được LHQ xác định là của VN nữa hay không? Thế nhưng Hà Nội lại xác định thềm lục địa VN chỉ 200 hải lý; tức gạt vùng biển Hoàng Sa Trường Sa ra ngoải thềm lục địa VN, gián tiếp gạt Hoàng Sa Trường vào trong hải phận hay chu vi bản đồ lưỡi bò Trung Cô.ng. Về mặt luật pháp thuần túy, đây là một hành vi “chuyển nhượng lãnh thổ quốc gia” bất hợp pháp và có dự mưu cho ngoại bang; Nguyễn Tấn Dũng và đồng bọn có thể bị truy tố về tội danh phản quốc và chí ít cũng thêm tội lạm quyền; khuynh hướng luật pháp quốc tế hiện nay liệt tội lạm quyền vào loại tội ác nghiêm tro.ng. [10] b] Âm mưu dâng Hoàng Sa Trường Sa cho ngoại bang của đảng CSVN lộ rõ hơn nữa khi đại diện Hà Nội vừa tuyên bố “sẽ tìm mọi cách để giải quyết vấn đề Biển Đông” và trong thời gian sắp tới “2 bên cùng bàn bạc, đàm phán, phân định biên giới trên biển.” Hai bên sẽ đàm phán thế nào thì vụ đàm phán 10 năm trước với hiệp ước 25.12.2000 về Vịnh Bắc Việt đủ để biết trước hậu quả của đàm phán song phương của Hà Nội với Bắc Kinh. 10 năm trước, Nhật Báo Nhân Dân Bắc Kinh của Trung Cộng đã hoan hỉ ghi lại kết quả về đàm phán: “Hải Nam là tỉnh nhỏ nhất của TH, nhưng sở hữu tới 2 triệu 200 ngàn km2 Vùng Đặc Quyền Kinh Tế” và học gỉa Vũ Hữu San nhận xét: “Chỉ một hòn đảo Hải Nam thôi, TH đã chiếm phần lớn Biển Đông... Làm sao VN còn đầy đủ sức lực cho cuộc thương thảo nhiều lần quan trọng hơn về Trường Sa Hoàng Sa cũng như toàn thể chủ quyền Biển Đông sau nàỵ Phía Trung Cộng vẫn chưa chính thức bước vào cuộc thương thảo lớn về Biển Đông thế mà họ đã thực sự thắng hiệp quyết đi.nh. Sỉ nhục Quốc Thể! Sĩ khí ở chỗ nào thế? Hỡi các “đồng chí” CSVN ơi!” Nói cụ thể hơn, qua thương thảo 10 năm trước trong việc phân định lại Vịnh Bắc Việt, Hà Nội đã dâng cho Bắc Kinh khoảng 20 ngàn km2 Vịnh Bắc Việt, đã để cho Bắc Kinh lấy bằng hết vùng thủy tra thạch ở cửa sông Hồng, nơi có tiềm năng dầu khí, và để cho Trung Cộng lấn chiếm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế phía Bắc VN, có nơi chỉ còn cách bờ biển VN có 40 hải lý. Nay thì tệ hại vô cùng vì chưa bước vào thương thảo tay đôi với Bắc Kinh mà Hà Nội đã tự “trói miệng” hay chịu thiệt trước khi xác nhận với LHQ là Thềm Lục Địa hay Vùng Đặc Quyền Kinh Tế hay hải phận VN chỉ có 200 hải lý, tức Hoàng Sa Trường Sa ngoài hải phận VN! Hà Nội biết rõ hơn ai hết Hoàng Sa Trường Sa là của VN với đầy đủ bằng chứng gía trị về tất cả mọi mặt, Trung Cộng dùng võ lực xâm chiếm Hoàng Sa và cùng một số nước khác chiếm đóng bất hợp pháp phần lớn Trường Sa thì Hà Nội có trách nhiệm phải đưa vấn đề ra trước cơ quan thẩm quyền để trục xuất kẻ xâm lược nếu không tự mình làm được điều này chứ sao lại thương thảo để chia chác biển đảo VN với quân cướp? Cho dù không trục xuất được bọn cướp ngay thì phán quyết của Toà Án Quốc Tế [như Hamburg chuyên về Luật Biển chẳng hạn] chí ít cũng giúp VN giữ được chủ quyền về pháp lý [và rất cần thiết cho mai sau] và ngăn chặn bất cứ ai muốn nhẩy vào hợp đồng khai thác với bọn cướp. c] Nguyễn Duy Chiến còn cho rằng “việc mở rộng thềm lục địa không liên hệ gì đến chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa” hay “việc Uỷ Ban cứu xét hồ sơ thềm lục địa mở rộng không ảnh hưởng đến vấn đề chủ quyền biển đảo” Sự thật cũng trái ngược với lời Chiến: Việc mở rộng thềm lục địa VN liên đới chặt chẽ với chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa; rõ ràng là nếu thềm lục địa VN mở rộng ra 350 lý thì VN đương nhiên làm chủ Hoàng Sa Trường Sa vì khi đó Hoàng Sa Trường Sa nằm gọn trên thềm lục địa VN. Hơn nữa, theo Điều 77 Luật Biển thì đây là chủ quyền tuyệt đối của nước ven biển trong việc thăm dò và khai thác dầu khí. Một lý do quan trọng khác khiến không nên tách Hoàng Sa Trường Sa ra khỏi thềm lục địa VN là vì 2 nhóm đảo này không được xem là hải đảo hay quần đảo theo nghĩa của Luật Biển. Theo Luật Biển, hải đảo hay đảo là một giải đất thiên nhiên bao bọc bởi nước và cao hơn mực nước thủy triềụ Nhóm Hoàng Sa Trường Sa chỉ có tiểu đảo, không có thường dân cư ngụ và không tự túc về kinh tế nên không được hưởng quy chế hải đảo hay đảo [Điều 121 Luật Biển]. Hoàng Sa Trường Sa cũng không phải là quần đảo theo nghiã Luật Biển vì diện tích quá nhỏ [6 hải lý vuông] trong một vùng biển rộng tới 180 ngàn hải lý vuông, vì theo Luật Biển [Điều 46, 47], quần đảo bao gồm các đảo nằm san sát bên nhau và phải có diện tích bằng ít nhất 1.9 vùng biển [như Nam Dương chẳng hạn]. d] Hà Nội lúc nào cũng cho rằng VN có chủ quyền đối với Hoàng Sa Trường Sa nhưng chỉ tuyên bố cho có tuyên bố hay hội thảo um sùm nhưng thực tế thì để cho Trung Cộng chiếm trọn Hoàng Sa và lấn chiếm dần dần Trường Sa. Hoàng Sa Trường Sa là của VN với đầy đủ bằng cớ giá trị về tất cả phương diện lịch sử, địa lý, hành chánh và pháp lý thì ai cũng biết và chắc chắn Trung Cộng cũng biết nên mới phải dùng võ lực lấn chiếm. Nếu không đử sức để bảo vệ khi Hoàng Sa Trường Sa bị xâm lăng, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý huyết mạch bị xâm lấn và thậm chí ngư dân VN bị bắn giết bừa bãi, tịch thu tàu thyền trong lúc hành nghề hợp pháp trong vùng biển VN, thì chí ít Hà Nội có trách nhiệm phải đưa vấn đề ra trước các cơ quan thẩm quyền phân xử. Nhưng Hà Nội chỉ phản ứng xuông qua loa vì có nhiều dấu hiệu khả tín chứng tỏ đảng CSVN đã dâng Hoàng Sa Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho đảng CSTH từ lâu rồi và nay Nguyễn Tấn Dũng nộp hồ sơ cho LHQ để hoàn tất tiến trình bàn giao những gì đã thoả thuận ngầm giữa 2 đảng CS này mà thôi Về mặt luật pháp, sau nhiều thập niên bàn cãi qua nhiều hội nghị quốc tế, Luật Biển LHQ ra đời để giải quyết những tranh chấp xảy ra trên biển nhất là từ khi khám phá ra tiềm năng to lớn về dầu khí và khí đốt dưới đáy biển. Quan niệm biển cả là tài sản chung của nhân loại, Luật Biển dành quyền giải quyết mọi tranh chấp xảy ra trên biển, đặc biệt là vấn đề mở rộng thềm lục địa với những điều khỏan qui định rõ ràng và “chỉ vấn đề nào Luật Biển không đề cập tới mới giải quyết theo tập tục hay qui tắc tổng quát của Công Pháp Quốc Tế.” Do đó, các nguyên tắc như quyền chiếm hữu [occupation] hay công bố minh thị [express proclamation] , nếu có được viện dẫn sau này để cho rằng “việc Trung Cộng chiếm cứ Hoàng Sa Trường Sa không có tác dụng tước đoạt chủ quyền lãnh thổ của VN” [11] thiết nghĩ làm sao vô hiệu được quyết định của Ủy Ban Thềm Lục Địa khi Uỷ Ban này căn cứ vào thẩm quyền minh thị bởi Luật Biển LHQ để xác định thềm lục địa hay hải phận VN chỉ có 200 hải lý -tức Hoàng Sa Trường Sa nằm ngoài hải-phận VN- do Hà Nội chính thức đề nghi.. Nguyễn Thành, 8.3.10 -Coordinator of Justice & Peace Group for Paracel & Spratly Islands of Vietnam -Florida, viết cho Quê Hương Tôi, cho Ngày 19.1 Tưởng Niệm Chiến Sĩ “Quyết Chiến” bảo vệ Hoàng Sa và cho Hội Ngộ Cựu SV Luật Khoa Sàigòn Toàn Cầu, 2 & 3.4.2010, Houston, Texas, Hoa Kỳ. Tài liệu tham khảo: -Submission by VN in respect of North Area, VNM-N [7 May 2009] -Joint Submission by Malaysia & VN in respect of the South part of the South China Sea [6 May 2009] -UN Convention on the Law of the Sea -Vũ Hữu San, Địa Lý Biển Đông với Hoàng Sa Trường Sa, 2007; vuhư Chú thích: [1] Statement by the Chairman of the Commission 24th Sessions [8 Aug 2009 to 11 Dec 2009], UNCLOS.com [2] Theo Luật Biển, chương trình nghị sự khóa họp của Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa do Đại Hội các nước hội viên Luật Biển duyệt xét và quyết định trước. Do đó, trước khi Ủy Ban Thềm Lục Địa khóa họp 24 khai mạc ngày 8.8.2009 ở trụ sở LHQ, các nước hội viên Luật Biển [trong đó có VN và TQ] đã họp trước, từ 22 đến 26.6.2009 ở cùng địa điểm, để duyệt xét và thông qua chương trình nghị sự khóa họp của Ủy Ban. Vì thế mà hồ sơ Thềm Lục Địa VNCH do nhóm cựu thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn soạn thảo kèm 2 thùng tài liệu và gửi cho Tổng thư ký LHQ ngày 27.4.2009 đã không tới được Ủy Ban Thềm Lục Địa là cơ quan có thẩm quyền về mở rộng thềm lục địạ Qúy vị quan tâm tới vần đề Hoàng Sa Trường Sa cần lưu ý điều này, nếu không thì hầu như Tuyên Cáo, Bạch Thư, Kháng Thư,... có gửi cho TTK LHQ thì cũng không được chuyển tới cơ quan có thẩm quyền là Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa và có tới thì Ủy Ban cũng không thể vượt ra ngoài 2 nhiệm vụ hay thẩm quyền nói ở chú thính [3] dưới đâỵ [3] The functions of the Commission shall be: 1] to consider the data and other material submitted by coastal States concerning the outer limits of the continental shelf in area where those limits extend beyond 200 nautical miles, and to make recommendations in accordance with article 76 and 2] to provide scientific and technical advice, if requested by coastal States. [Điều 3 Phụ Bản II Luật Biển LHQ] [4] The continental shelf of a coast al nation extends out to the outer edge of the continental margin but at least 200 nautical miles from the baselines of the territorial sea margin does not stretch that far. The outer limit of a country’s continental shelf shall not stretch beyond 350 nautical miles of the baseline, or beyond 100 miles nautical miles from the 2,500 meter isobath. [Điều 77 Luật Biển LHQ] [5] An Exclusive Economic Zone extends for 200 nautical miles [370km] beyond the baselines of the territorial sea, thus it includes the territorial sea and its contiguous zonẹ A coastal nation has control of all economic resources within its EEZ, including fishing, mining, oil exploration, and any pollution of those resources. Hpwever, it can’t regulate or prohibit passage or loitering above, on, or under the surface of the sea, whether innocent or belligerent, withinthat portion of its EEZ beyond its territorial seạ [Điều 76 Luật Biển LHQ] [6] “On its position over the islands, China has been most reluctant to sujects the disputes to international legal arbitration: The case of South China Sea Islands by Chi-Kin Lo, 1989”. [7] [11] LS Nguyễn Hữu Thống, sđd, tr. 38 và 16. [8] Vietnamnet, Hội nghị Biển Đông Hà Nội, 10..11.2009. [9] Vũ Dũng, một thứ-trưởng ngoại giao Hà Nội khác, sau Lê Công Phụng, tuyên bố với báo chí đầu năm 2008 đã bị chính cựu Đại tá CS Bùi Tín cho là dối trá và thách đối chất như sau: “Do nắm chắc tình hình...mà tôi [Bùi Tín] muốn hỏi ông Vũ Dũng là theo ông có thật là ta không mất đất ở vùng Hà Giang, Lào Kay, Hoàng Liên Sơn không? Theo tôi, các đoàn đàm phán của ta từ 1996 đến 1999 đã tỏ ra rất mềm yếụ Nhiều giải núi ở Tây Bắc thưa dân, giầu tài nguyên, có gía trị quân sự bị lấn chiếm. Con số 700 đến 800 km2 bị mất không phải là bịa đặt. Thực tế có thể hơn... Giang Trạch Dân luôn thúc dục Lê Khả Phiêu phải thương lượng nhanh, phải ký hiệp ước trên bộ trong năm 1999 và trên biển trong năm 2000. Có ai đi thương lượng lại chịu ép trước về thời gian đến thế? Cho nên rất dễ hiểu là các nhà đàm phán VN đều nhũn như con chi chị Chính Đỗ Mười cũng tố cáo Lê Khả Phiêu là nhượng bộ quá, “để mất quá nhiều” cho Trung-quốc... Hai bên đã thỏa thuận tháng 6.2008 này sẽ hoàn tất việc phân giới, cắm mốc và ký nghị định thư về biên giới trên bô.... Lúc ấy muốn che dấu, úp mở cũng không được nữạ Phía Bắc Kinh sẽ nhanh nhẩu phổ biến tập bản đồ mới để khoe thắng lợi, vì họ thắng đậm... Lúc ấy, các ông Vũ Dũng, Lê Dũng, Lê Công Phụng, rồi các ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Di Niên, đến ông Lê Khả Phiêu và 4 ông tứ trụ Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng sẽ có đầy đủ chứng cớ minh bạch là đã bảo vệ biên giới bất khả xâm phạm của Tổ-quốc ra sao, hay sẽ đực mặt bán đất bán nước ra sao!” [Vietbao.com, 4.9.2008] [10] Toà Án Quốc Tế ad hoc Bosnia thiết lập bởi nghị quyết của HĐBA ngày 25.5.1993 đã truy tố Slobodan Milosovic, Tổng thống đương quyền Liên Bang Nam Tư, và thẩm phán Tây Ban Nha Baltasar Gapzon đã thành công khi ký trát nã bắt quốc tế bắt Augusto Pinochet, cựu tổng thống Chile, ở London ngày 16.10.1998 khi ông này đến đây chữa bịnh, nhưng ông Gapzon không thành công khi đòi thẩm vấn Henry Kissinger, cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ, khi Kiss đến London diễn thuyết năm 2002 vì Kiss kịp trốn về nước khi được mật báo; Milosovic, Pinochet và Kiss đều bị truy tố về tội lạm quyền cùng với nhiều tội ác nghiêm trọng khác. [Nguyễn Văn Thành, Vụ án Pinochet làm rung chuyển luật Pháp quốc tế, VN Nhật Báo, 5.8.2000] http://tapchingonluan.de/index.php?o...viet&Itemid=59 |
Dịch từ Anh Ngử tới các ngôn ngử khác
Thứ Hai, 26 tháng 7, 2010
Hoàng Sa -Trường Sa
Chủ Nhật, 18 tháng 7, 2010
Căng thẳng với Bắc Triều Tiên về vụ tàu Cheonan...
Căng thẳng với Bắc Triều Tiên về vụ tàu Cheonan đè nặng bầu không khí ARF
Các viên chức tình báo các nước châu Á Thái Bình Dương quan sát xác tàu Cheonan tại căn cứ hải quân Pyeongtaek, ở phía nam Seoul ngày 11/6/2010.
Các viên chức tình báo các nước châu Á Thái Bình Dương quan sát xác tàu Cheonan tại căn cứ hải quân Pyeongtaek, ở phía nam Seoul ngày 11/6/2010.
Reuters
Đức Tâm
Diễn đàn an ninh khu vực ARF lần thứ 17 sẽ được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 23/7. Theo giới quan sát và các nhà ngoại giao thì căng thẳng về vụ chìm tàu Cheonan của Hàn Quốc sẽ đè nặng lên bầu không khí Diễn đàn này.
Việt Nam, nước hiện là chủ tịch ASEAN và tổ chức ARF, cho biết là ngoại trưởng Bắc Triều Tiên Pai Ui-Chun sẽ tới dự Diễn đàn. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton, cùng với 26 đồng nhiệm khác như Trung Quốc, Nga, Liên Hiệp Châu Âu, cũng có mặt.
Cách nay vài ngày, chính quyền Seoul đã bày tỏ mong muốn là ARF lên án chính quyền Bình Nhưỡng bắn ngư lôi làm chìm tàu Cheonan, hồi tháng ba năm nay. 46 thủy thủ Hàn Quốc thiệt mạng trong vụ này. Cho đến nay, Bình Nhưỡng vẫn bác bỏ những cáo buộc này và đe doạ sẽ trả đũa nếu bị trừng phạt.
Trước khi sang Hà Nội, ngoại trưởng Mỹ Hillary Cliton công du Hàn Quốc vào ngày 21/07. Bà sẽ cùng bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates tới viếng các binh sĩ Hàn Quốc bị thiệt mạng trong vụ tàu Cheonan tại khu tưởng niệm chiến tranh ở Seoul.
Theo AFP, Diễn đàn an ninh khu vực sẽ chịu “sức ép rất lớn ” trong hồ sơ chìm tàu Cheonan, sau khi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ra tuyên bố lên án vụ tấn công, nhưng không nêu đích danh thủ phạm là Bắc Triều Tiên. Một nhà ngoại giao cho rằng ARF sẽ phải đề cập đến vụ này. Còn trợ lý ngoại trưởng Mỹ Kurt Campbell tiết lộ là tại ARF, ngoại trưởng Clinton “sẽ có những phát biểu cụ thể về thảm họa chìm tàu Cheonan”.
Tuy nhiên, các nhà phân tích nhận định là ARF khó có thể đưa ra được những tuyên bố cứng rắn, rõ ràng, về vụ chìm tàu Cheonan, do sự hình thành hai nhóm nước có quan điểm trái ngược nhau : Một bên là Bắc Triều Tiên, Trung Quốc, Nga và bên kia là Hàn Quốc, Mỹ và một số quốc gia khác.
Theo ông Leonid Petrov, chuyên gia về Triều Tiên, tại trường đại học Sedney, Úc thì Nga và Trung Quốc, thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An, đã tìm mọi cách để bản tuyên bố của Hội Đồng Bảo An ngày 09/07 trở nên rất nhẹ nhàng và chỉ mang tính cách gián tiếp, trái ngược hẳn với những gì mà Mỹ và Hàn Quốc mong muốn.
Bắc Kinh và Matxcơva không công khai cáo buộc Bình Nhưỡng phải chịu trách nhiệm về vụ bắn chìm tàu Cheonan, bất chấp kết luận của cuộc điều tra quốc tế với sự tham gia của các chuyên gia Hàn Quốc, Mỹ và một số nước khác. Theo các nhân viên điều tra, thì có nhiều bằng chứng vững chắc cho thấy đây là một vụ tấn công bằng thủy lôi Bắc Triều Tiên.
Do vậy, nếu có nói về vụ chìm tàu Cheonan, thì có thể ARF sẽ dựa theo tuyên bố của Liên Hiệp Quốc hoặc sử dụng ngôn từ tương tự và không lên án Bình Nhưỡng.
Việt Nam cũng ở trong tình thế tế nhị. Hà Nội có quan hệ kinh tế chặt chẽ với Seoul nhưng đồng thời lại coi chế độ Bình Nhưỡng như một đồng minh cùng hệ tư tưởng cộng sản.
Theo ông Ralph Cossa, chủ tịch Diễn đàn Thái Bình Dương thuộc Viện nghiên cứu CSIS tại Hawaii thì “Hà Nội sẽ không tìm cách đối đầu với Bình Nhưỡng một cách không cần thiết, nhưng có thể cũng không ngần ngại bình luận về vụ này”.
Chuyên gia Daniel Pinkston thuộc Nhóm Nghiên cứu Khủng hoảng Quốc tế nhận định rằng nếu nhìn vào hình thức hoạt động của Diễn đàn và quy trình đạt được đồng thuận, thì ARF sẽ tìm cách giảm thiểu tầm quan trọng của hồ sơ chìm tàu Cheonan. Các ngoại trưởng có thể viện dẫn là Hội đồng Bảo an đã ra tuyên bố và tránh đi xa hơn văn bản này.
ASEAN là nòng cốt của Diễn đàn an ninh khu vực và một trong những nguyên tắc cơ bản của khối này là không can thiệp vào công việc nội bộ các nước thành viên.
ARF vẫn thường xuyên bị chỉ trích là một diễn đàn có ít ảnh hưởng trong việc thúc đẩy giải quyết các cuộc xung đột trong khu vực – từ vấn đề Cachemir cho đến những tranh chấp về chủ quyền trên Biển Đông hay những vụ bạo lực ở miền nam Philippines. Vai trò tích cực nhất của Diễn đàn chỉ là giúp xây dựng lòng tin giữa các quốc gia.
tags: Bắc Triều Tiên - Châu Á - Hàn Quốc - Phân tích - Việt Nam
Nhận định NT5 Trương Đình Trung
Bài viết của Đức Tâm dường như có liên quan đến một bài báo khác của Timberlake có nhan đề là North Korean Tensions Overshadow Asian Regional Forum, trong link sau đây:
http://leonidpetrov.wordpress.com/2010/07/18/n-korea-tensions-overshadow-asian-security-forum/
Các viên chức tình báo các nước châu Á Thái Bình Dương quan sát xác tàu Cheonan tại căn cứ hải quân Pyeongtaek, ở phía nam Seoul ngày 11/6/2010.
Các viên chức tình báo các nước châu Á Thái Bình Dương quan sát xác tàu Cheonan tại căn cứ hải quân Pyeongtaek, ở phía nam Seoul ngày 11/6/2010.
Reuters
Đức Tâm
Diễn đàn an ninh khu vực ARF lần thứ 17 sẽ được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 23/7. Theo giới quan sát và các nhà ngoại giao thì căng thẳng về vụ chìm tàu Cheonan của Hàn Quốc sẽ đè nặng lên bầu không khí Diễn đàn này.
Việt Nam, nước hiện là chủ tịch ASEAN và tổ chức ARF, cho biết là ngoại trưởng Bắc Triều Tiên Pai Ui-Chun sẽ tới dự Diễn đàn. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton, cùng với 26 đồng nhiệm khác như Trung Quốc, Nga, Liên Hiệp Châu Âu, cũng có mặt.
Cách nay vài ngày, chính quyền Seoul đã bày tỏ mong muốn là ARF lên án chính quyền Bình Nhưỡng bắn ngư lôi làm chìm tàu Cheonan, hồi tháng ba năm nay. 46 thủy thủ Hàn Quốc thiệt mạng trong vụ này. Cho đến nay, Bình Nhưỡng vẫn bác bỏ những cáo buộc này và đe doạ sẽ trả đũa nếu bị trừng phạt.
Trước khi sang Hà Nội, ngoại trưởng Mỹ Hillary Cliton công du Hàn Quốc vào ngày 21/07. Bà sẽ cùng bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates tới viếng các binh sĩ Hàn Quốc bị thiệt mạng trong vụ tàu Cheonan tại khu tưởng niệm chiến tranh ở Seoul.
Theo AFP, Diễn đàn an ninh khu vực sẽ chịu “sức ép rất lớn ” trong hồ sơ chìm tàu Cheonan, sau khi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ra tuyên bố lên án vụ tấn công, nhưng không nêu đích danh thủ phạm là Bắc Triều Tiên. Một nhà ngoại giao cho rằng ARF sẽ phải đề cập đến vụ này. Còn trợ lý ngoại trưởng Mỹ Kurt Campbell tiết lộ là tại ARF, ngoại trưởng Clinton “sẽ có những phát biểu cụ thể về thảm họa chìm tàu Cheonan”.
Tuy nhiên, các nhà phân tích nhận định là ARF khó có thể đưa ra được những tuyên bố cứng rắn, rõ ràng, về vụ chìm tàu Cheonan, do sự hình thành hai nhóm nước có quan điểm trái ngược nhau : Một bên là Bắc Triều Tiên, Trung Quốc, Nga và bên kia là Hàn Quốc, Mỹ và một số quốc gia khác.
Theo ông Leonid Petrov, chuyên gia về Triều Tiên, tại trường đại học Sedney, Úc thì Nga và Trung Quốc, thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An, đã tìm mọi cách để bản tuyên bố của Hội Đồng Bảo An ngày 09/07 trở nên rất nhẹ nhàng và chỉ mang tính cách gián tiếp, trái ngược hẳn với những gì mà Mỹ và Hàn Quốc mong muốn.
Bắc Kinh và Matxcơva không công khai cáo buộc Bình Nhưỡng phải chịu trách nhiệm về vụ bắn chìm tàu Cheonan, bất chấp kết luận của cuộc điều tra quốc tế với sự tham gia của các chuyên gia Hàn Quốc, Mỹ và một số nước khác. Theo các nhân viên điều tra, thì có nhiều bằng chứng vững chắc cho thấy đây là một vụ tấn công bằng thủy lôi Bắc Triều Tiên.
Do vậy, nếu có nói về vụ chìm tàu Cheonan, thì có thể ARF sẽ dựa theo tuyên bố của Liên Hiệp Quốc hoặc sử dụng ngôn từ tương tự và không lên án Bình Nhưỡng.
Việt Nam cũng ở trong tình thế tế nhị. Hà Nội có quan hệ kinh tế chặt chẽ với Seoul nhưng đồng thời lại coi chế độ Bình Nhưỡng như một đồng minh cùng hệ tư tưởng cộng sản.
Theo ông Ralph Cossa, chủ tịch Diễn đàn Thái Bình Dương thuộc Viện nghiên cứu CSIS tại Hawaii thì “Hà Nội sẽ không tìm cách đối đầu với Bình Nhưỡng một cách không cần thiết, nhưng có thể cũng không ngần ngại bình luận về vụ này”.
Chuyên gia Daniel Pinkston thuộc Nhóm Nghiên cứu Khủng hoảng Quốc tế nhận định rằng nếu nhìn vào hình thức hoạt động của Diễn đàn và quy trình đạt được đồng thuận, thì ARF sẽ tìm cách giảm thiểu tầm quan trọng của hồ sơ chìm tàu Cheonan. Các ngoại trưởng có thể viện dẫn là Hội đồng Bảo an đã ra tuyên bố và tránh đi xa hơn văn bản này.
ASEAN là nòng cốt của Diễn đàn an ninh khu vực và một trong những nguyên tắc cơ bản của khối này là không can thiệp vào công việc nội bộ các nước thành viên.
ARF vẫn thường xuyên bị chỉ trích là một diễn đàn có ít ảnh hưởng trong việc thúc đẩy giải quyết các cuộc xung đột trong khu vực – từ vấn đề Cachemir cho đến những tranh chấp về chủ quyền trên Biển Đông hay những vụ bạo lực ở miền nam Philippines. Vai trò tích cực nhất của Diễn đàn chỉ là giúp xây dựng lòng tin giữa các quốc gia.
tags: Bắc Triều Tiên - Châu Á - Hàn Quốc - Phân tích - Việt Nam
Nhận định NT5 Trương Đình Trung
Bài viết của Đức Tâm dường như có liên quan đến một bài báo khác của Timberlake có nhan đề là North Korean Tensions Overshadow Asian Regional Forum, trong link sau đây:
http://leonidpetrov.wordpress.com/2010/07/18/n-korea-tensions-overshadow-asian-security-forum/
Vụ tàu Choenan của Nam Hàn bị thuỷ lôi đánh đắm, chết mất 46 thuỷ thủ ngày 26/3 vừa qua là một dịp tốt cho giới quan sát lượng giá mối quan hệ quốc tế giữa các cường quốc Mỹ-Nga-Trung Quốc trong vùng bán đảo Triều Tiên nói riêng và Á Châu nói chung.
Mặc cho những cáo buộc nặng nề dành cho Bắc Hàn và yêu cầu điều tra của Nam Hàn, Hội Đồng Bảo An trong tuyên bố ngày 9/7 đã chỉ kết luận rằng tàu Choenan đã bị tấn công và lên án hành động tấn công đó, đồng thời kêu gọi mọi thành viên nên có những biện pháp hoà bình để giải quyết vấn đề. Tuyên bố của Hội Đồng cũng ngay cả không nêu đích danh Bắc Hàn là thủ phạm như Nam Hàn đã cáo buộc!
Trong khi đó phản ứng của Mỹ-Nam Hàn cũng tỏ ra rất giới hạn. Hai quốc gia đã dự trù một cuộc tập trận chung ngay vùng biển Yellow Sea, ngoài khơi bán đảo Triều Tiên, dự định có cả Hàng Không Mẫu Hạm USS George Washington tham dự vào tháng Bảy. Nhưng rồi cuộc tập trận đó đã bị đình hoãn vô thời hạn.
Vùng biển Yellow Sea là cửa ngỏ dẩn vào vùng Hoa Bắc, chạy dài từ Thiên Tân lên Bắc Kinh, là vùng công nghiệp quan yếu của Trung Quốc. Từ năm 1994 đến nay các chiến hạm của Mỹ đã thôi không vào vùng biển này. Bắc Kinh đã luôn tỏ thái độ quyết liệt đối với việc xuất hiện của các tàu chiến Mỹ trong vùng này.
Ngay sau tin tức về dự trù tập trận Mỹ-Nam Hàn được đưa ra, Trung Quốc đã cho tập trận bắn đạn thật nhiều ngày trong vùng biển Đông Trung Hoa (East China Sea) giáp ranh vùng Yellow Sea, với sự tham gia của nhiều đơn vị hải quân tinh nhuệ và tàu phóng phi đạn tối tân. Tuy công khai Trung Quốc tuyên bố rằng đây chỉ là cuộc tập trận thường lệ hàng năm, nhưng giới quan sát nghi ngờ động cơ thật sự của cuộc tập trận ấy của Trung Quốc.
Trung Quốc cũng không công khai chỉ trích Bắc Hàn trong vụ chìm tàu Choenan. Nhưng có dấu hiệu cho thấy là ngấm ngầm Trung Quốc đã cố kìm để cho Bắc Hàn không đi xa hơn, gây thêm căng thẳng trong Vùng.
Nga, thành viên của Hội Đồng Bảo An, lại có cùng thái độ với Trung Quốc trong vụ này; nghĩa là không có một tuyên bố nào thuận lợi cho những cáo buộc của Nam Hàn đối với Bắc Hàn cả. Cả Nga lẫn Trung quốc đã không hưởng ứng việc tổ chức điều tra thêm về vụ tàu Choenan.
Như vậy, trong vụ này, Nga-Trung Quốc đã nhiều ít đứng về phía Bắc Hàn. Còn phía bên kia là Mỹ-Nam Hàn, và với Nhật Bản ở vị thế kín đáo hơn. Dường như Mỹ đã không dám phản ứng mạnh trong vụ này, có lẽ vì ngại một sự căng thẳng lớn đối với cả Trung Quốc lẫn Nga. Mỹ không những đang bị cơn suy thoái kinh tế làm cho suy yếu, nhưng còn bị hai cuộc chiến Iraq-Afghanistan cột chặt, làm giảm sút cả lực lượng trừ bị chiến lược toàn cầu của mình. Trước đây, Mỹ cũng đã không phản ứng gì được như nhiều người mong đợi trong vụ Nga tiến quân vào Georgia năm ngoái. Đơn giản chỉ vì lực lượng chiến lược của Mỹ đã bị trãi ra quá mỏng. Đây cũng chính là lý do Mỹ phải rút bớt quân sớm ra khỏi Iraq, và nổ lực kết thúc chiến cuộc Afghanistan bằng giải pháp chính trị sớm để thu quân về nhằm tái lập lực lượng trừ bị chiến lược toàn cầu trong tình hình mới càng sớm càng tốt dưới áp lực của Trung Quốc và Nga.
Tình hình trên đây đáng cho người Việt chúng ta quan tâm theo dõi và suy ngẫm, bởi nó sẽ giúp chúng ta có được những lượng định khách quan và đúng đắn hơn về tương quan giữa các cường quốc chủ yếu trên bàn cờ Á Châu và Thế Giới ngày nay.
Mặt khác, có lẽ cũng nên theo dõi phản ứng của Hà Nội, nếu có, trong vụ này. Có lẽ Hà Nội sẽ im lặng, hoặc nhiều lắm thì chỉ nêu vấn đề giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, phù hợp với tuyên bố của Hội Đồng Bảo An mà thôi. Bởi vì Hà Nội không có nhiều lựa chọn trong trường hợp này. Hơn nữa ARF cũng chỉ là một diễn đàn.
Kính,
Trung nt5
Mặc cho những cáo buộc nặng nề dành cho Bắc Hàn và yêu cầu điều tra của Nam Hàn, Hội Đồng Bảo An trong tuyên bố ngày 9/7 đã chỉ kết luận rằng tàu Choenan đã bị tấn công và lên án hành động tấn công đó, đồng thời kêu gọi mọi thành viên nên có những biện pháp hoà bình để giải quyết vấn đề. Tuyên bố của Hội Đồng cũng ngay cả không nêu đích danh Bắc Hàn là thủ phạm như Nam Hàn đã cáo buộc!
Trong khi đó phản ứng của Mỹ-Nam Hàn cũng tỏ ra rất giới hạn. Hai quốc gia đã dự trù một cuộc tập trận chung ngay vùng biển Yellow Sea, ngoài khơi bán đảo Triều Tiên, dự định có cả Hàng Không Mẫu Hạm USS George Washington tham dự vào tháng Bảy. Nhưng rồi cuộc tập trận đó đã bị đình hoãn vô thời hạn.
Vùng biển Yellow Sea là cửa ngỏ dẩn vào vùng Hoa Bắc, chạy dài từ Thiên Tân lên Bắc Kinh, là vùng công nghiệp quan yếu của Trung Quốc. Từ năm 1994 đến nay các chiến hạm của Mỹ đã thôi không vào vùng biển này. Bắc Kinh đã luôn tỏ thái độ quyết liệt đối với việc xuất hiện của các tàu chiến Mỹ trong vùng này.
Ngay sau tin tức về dự trù tập trận Mỹ-Nam Hàn được đưa ra, Trung Quốc đã cho tập trận bắn đạn thật nhiều ngày trong vùng biển Đông Trung Hoa (East China Sea) giáp ranh vùng Yellow Sea, với sự tham gia của nhiều đơn vị hải quân tinh nhuệ và tàu phóng phi đạn tối tân. Tuy công khai Trung Quốc tuyên bố rằng đây chỉ là cuộc tập trận thường lệ hàng năm, nhưng giới quan sát nghi ngờ động cơ thật sự của cuộc tập trận ấy của Trung Quốc.
Trung Quốc cũng không công khai chỉ trích Bắc Hàn trong vụ chìm tàu Choenan. Nhưng có dấu hiệu cho thấy là ngấm ngầm Trung Quốc đã cố kìm để cho Bắc Hàn không đi xa hơn, gây thêm căng thẳng trong Vùng.
Nga, thành viên của Hội Đồng Bảo An, lại có cùng thái độ với Trung Quốc trong vụ này; nghĩa là không có một tuyên bố nào thuận lợi cho những cáo buộc của Nam Hàn đối với Bắc Hàn cả. Cả Nga lẫn Trung quốc đã không hưởng ứng việc tổ chức điều tra thêm về vụ tàu Choenan.
Như vậy, trong vụ này, Nga-Trung Quốc đã nhiều ít đứng về phía Bắc Hàn. Còn phía bên kia là Mỹ-Nam Hàn, và với Nhật Bản ở vị thế kín đáo hơn. Dường như Mỹ đã không dám phản ứng mạnh trong vụ này, có lẽ vì ngại một sự căng thẳng lớn đối với cả Trung Quốc lẫn Nga. Mỹ không những đang bị cơn suy thoái kinh tế làm cho suy yếu, nhưng còn bị hai cuộc chiến Iraq-Afghanistan cột chặt, làm giảm sút cả lực lượng trừ bị chiến lược toàn cầu của mình. Trước đây, Mỹ cũng đã không phản ứng gì được như nhiều người mong đợi trong vụ Nga tiến quân vào Georgia năm ngoái. Đơn giản chỉ vì lực lượng chiến lược của Mỹ đã bị trãi ra quá mỏng. Đây cũng chính là lý do Mỹ phải rút bớt quân sớm ra khỏi Iraq, và nổ lực kết thúc chiến cuộc Afghanistan bằng giải pháp chính trị sớm để thu quân về nhằm tái lập lực lượng trừ bị chiến lược toàn cầu trong tình hình mới càng sớm càng tốt dưới áp lực của Trung Quốc và Nga.
Tình hình trên đây đáng cho người Việt chúng ta quan tâm theo dõi và suy ngẫm, bởi nó sẽ giúp chúng ta có được những lượng định khách quan và đúng đắn hơn về tương quan giữa các cường quốc chủ yếu trên bàn cờ Á Châu và Thế Giới ngày nay.
Mặt khác, có lẽ cũng nên theo dõi phản ứng của Hà Nội, nếu có, trong vụ này. Có lẽ Hà Nội sẽ im lặng, hoặc nhiều lắm thì chỉ nêu vấn đề giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, phù hợp với tuyên bố của Hội Đồng Bảo An mà thôi. Bởi vì Hà Nội không có nhiều lựa chọn trong trường hợp này. Hơn nữa ARF cũng chỉ là một diễn đàn.
Kính,
Trung nt5
Video: Buổi Lễ Ngày Hoàng Sa Toàn Cầu tổ chức tại Bắc California
Giáo sư Nguyễn Văn Canh thuyết trình về chủ quyền của Quần Đảo Hoàng Sa ...
Thứ Năm, 15 tháng 7, 2010
Tháng Tư và Hòa giải dân tộc
Tháng Tư và Hòa giải dân tộc
Tháng Tư năm nay, cũng như những tháng Tư của hơn 30 năm qua, giới hữu trách Việt Nam đã tưng bừng tổ chức ngày kỷ niệm mà họ gọi là “chiến thắng vĩ đại ngày 30-4-1975.” Họ cũng không quên nhắc tới sự kiện mà họ mô tả là “ở một số nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ, một số nhóm phản động cực đoan thường tổ chức ‘ngày quốc hận’ để hoài niệm một chế độ tàn bạo ở miền nam Việt Nam đã sụp đổ, hoài niệm thời kỳ đất nước bị chia cắt, tìm cách bôi nhọ những gì tốt đẹp đang diễn ra ở Việt Nam”. (Quân Đội Nhân Dân, 18-04-2010) Trong khi đó, một số văn nghệ sĩ ở Việt Nam mới đây đã cho đăng tải trên mạng internet những bài viết kêu gọi mọi người hãy có một cái nhìn mới về biến cố lịch sử này để tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc hòa giải dân tộc, nổi bật là bài “Tùy Bút Tháng Tư” của nhà văn Vũ Ngọc Tiến được phổ biến rộng rãi trên mạng. Ban Việt Ngữ VOA đã tiếp xúc với nhà thơ Trần Trung Đạo, một blogger ở Mỹ (trantrungdao.com) có nhiều bài bình luận về văn học và chính trị Việt Nam được nhiều người ưa thích, để tìm hiểu thêm về vấn đề đáng chú ý này. Mời quí vị theo dõi cuộc phỏng vấn do Duy Ái thực hiện sau đây.
Duy Ái
Washington D.C Thứ Sáu, 30 tháng 4 2010
Việt Nam kỷ niệm 35 năm ngày kết thúc chiến tranh
Những giây phút trước lúc Sài Gòn thất thủ 35 năm trước
Tổng Thống Lincoln quan niệm tinh thần đoàn kết, hòa giải giữa các thành phần quốc gia là điều kiện quyết định giúp quốc gia vượt qua những khó khăn, cũng như dẫn đến sự vững mạnh, thăng tiến lâu dài. Sự phát triển vượt bực của Hoa Kỳ, từ thuộc địa của Anh trở thành cường quốc hàng đầu thế giới đã chứng minh câu Tổng Thống Lincoln trích dẫn là một chân lý. Chân lý đó cũng đã được thử nghiệm và xác định tại nhiều quốc gia khác như Nam Phi, Cộng Hòa Đức v.v..
Tổng thống Lincoln nhấn mạnh đến tinh thần hòa giải trong diễn văn nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ 2, 1865, nghĩa là sau khi quân đội miền bắc đã kết thúc cuộc nội chiến bằng chiến thắng, và TT Nelson Mandela cũng chỉ lập Ủy Ban Sự Thật Và Hòa Giải Quốc Gia sau khi đã đắc cử Tổng Thống Cộng Hòa Nam Phi. Nếu TT Lincoln bỏ tù hết các cấp sĩ quan, viên chức chính quyền miền nam, chắc chắn quân đội của tướng Robert Lee đã không buông súng dễ dàng, và nước Mỹ có thể không có ngày hôm nay. Tương tự, nếu TT Nelson Mandela bắt thiểu số da trắng phải trả giá bằng những cực hình đầy đọa giống như dân da đen đã từng chịu đựng dưới ách phân biệt chủng tộc Nam Phi thì hòa hợp hòa giải đã không đến cho quốc gia này.
Từ những bài học quý giá đó, tôi quan niệm hòa giải không chỉ là một tình cảm mà phải dựa trên các nền tảng chính trị, kinh tế, xã hội cần thiết, và các nền tảng đó chính là sự thật, tự do, dân chủ và bình đẳng giữa những con người cũng như giữa các thành phần trong xã hội.
Giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam có tất cả những phương tiện để thực thi hòa giải hòa hợp dân tộc nhưng họ đã không làm. Lý do, nếu làm thì họ đã không phải là Cộng Sản. Hòa giải hòa hợp dân tộc đặt cơ sở trên sự bao dung, bình đẳng vốn đi ngược lại mục tiêu Cộng Sản hóa Việt Nam bằng các phương tiện bạo lực mà đảng đã và đang dùng.
Do đó, ngày nào chế độc độc tài đảng trị, dù tồn tại dưới bất cứ hình thức nào tại Việt Nam, ngày đó chuyện hòa giải chỉ là một chuyện để bàn cho có và cũng sẽ qua đi theo mỗi tháng Tư.
VOA: Thưa anh Trần Trung Đạo, một câu nói của ông Võ Văn Kiệt liên quan đến vấn đề “hòa giải hòa hợp” được các bên trích dẫn khá nhiều là “một triệu người vui, một triệu người buồn”. Xin anh chia sẻ về câu nói này của ông Võ Văn Kiệt cũng như các ý kiến tương tự khác mà anh đọc trong dịp 30 tháng 4 năm nay?
Trần Trung Đạo: Câu nói của ông Võ Văn Kiệt, ngày 30 tháng 4 “có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn” có lẽ là câu nói tích cực nhất mà chúng ta được nghe từ một người từng đóng vai trò lãnh đạo đảng và nhà nước Cộng Sản Việt Nam trong một thời gian dài sau 1975.
Như tôi đã có lần viết trong một tiểu luận về những lời phát biểu của ông Võ Văn Kiệt, tôi tin đó là một câu nói chân thành, kết quả của nhiều đêm trăn trở.
Tôi vui mừng bởi vì ông đã góp phần tạo nên một môi trường thảo luận những vấn đề sinh tử của đất nước mà trước đây không có được. Các thế hệ trẻ Việt Nam, qua những lời phát biểu của ông, có cơ hội biết đến một quãng lịch sử dân tộc đen tối do chính một trong những người chịu trách nhiệm lớn nhất của đảng và nhà nước trong giai đoạn đó kể ra. Con đường mà dân tộc đã trải qua trong suốt hơn 30 năm không phải là “con đường vinh quang” như các em đang học ở trường, những ngày mà cha chú các em đã sống không phải là “những ngày đẹp nhất dù mai sau đời vạn lần hơn”, nhưng là con đường nhuộm bằng máu và nước mắt, trong đó, “có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn” như ông Võ Văn Kiệt đã nhắc lại.
Ngoài ông Võ Văn Kiệt đã qua đời, một số cán bộ Cộng Sản nổi bật trong giai đoạn chiến tranh như cựu đại sứ Cộng Sản Việt Nam tại Pháp Võ Văn Sung trong buổi phỏng vấn dành cho VietNamNet mới đây cũng nhấn mạnh đến tinh thần hòa giải bằng những câu phát biểu thật “thắm thía”: “Lúc này nếu ai đó trong chúng ta dù từng đứng từ phía nào mà vẫn nuôi lòng thù hận, cản trở hòa hợp dân tộc thì sẽ dần trở nên lạc lõng và thật sự có lỗi với tương lai của chính con cháu mình.”
Thế nhưng cả ông Võ Văn Kiệt lẫn ông Võ Văn Sung, về khái niệm, đều lầm lẫn giữa hòa giải và đầu hàng, giữa hòa hợp và phục tùng, giữa bao dung dân tộc và thương xót người chiến bại. Hòa giải hòa hợp là con đường hai chiều, là chiếc cầu nhiều nhịp. Và như tôi đã phát biểu ở trên, phải dựa trên nền tảng bình đẳng, tự do, dân chủ. Không ai có quyền bắt người khác phải bơi qua sông để hòa giải với mình. Những người lính miền nam cần công lý chứ không cần thương xót.
VOA: Trong hai tuần qua, nhiều độc giả của các trang blog không do nhà nước kiểm soát đã xôn xao bàn tán về bài viết “Tùy Bút Tháng Tư” của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, cũng như mới đây bài viết của nhà văn Nguyễn Trọng Tạo “Đừng Thêm Những Tháng Tư”. Xin anh cho biết ý kiến của anh về hai bài viết này?
Trần Trung Đạo: Trong lúc tôn trọng sự khác biệt về cách giải thích nguyên nhân của cuộc chiến Việt Nam, tôi thông cảm những trăn trở của nhà văn Vũ Ngọc Tiến trong bài viết mới đây Tùy Bút Tháng Tư “Trong số 3,2 triệu người Việt định cư ở hải ngoại hiện nay, số ra đi trước ngày 30/4/1975, kể cả số di cư từ thời thuộc Pháp chỉ khoảng 1 triệu, số còn lại hơn 2 triệu người chủ yếu rời bỏ đất nước từ nửa cuối thập niên 70 và cả thập niên 80 của thế kỷ trước. Thế hệ chúng tôi “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, sao những người được chúng tôi giải phóng lại ào ào bỏ nước mà đi đông đến vậy?”
Tôi nghĩ câu hỏi này nhà văn đặt ra cho giới lãnh đạo đảng chứ không phải cho độc giả của ông. Tuy nhiên, với tư cách là một trong số hơn hai triệu người ra đi sau 1975, tôi nghĩ, lý do cũng rất là đơn giản. Họ ra đi sau 1975 là vì tự do. Nếu Liên Hiệp Quốc và các quốc gia Đông Nam Á không đóng cửa các trại tỵ nạn đầu thập niên 90 thì không chỉ 2 triệu mà có thể 4 triệu, 6 triệu hay nhiều hơn nữa đã bỏ xứ ra đi.
Quê hương Việt Nam sau 1975 là quê hương để nhớ, để thương nhưng không phải để sống.
Và sau 35 năm, ngoài trừ một số rất ít, 300 ngàn người thành đạt như nhiều nguồn ước tính và nhà văn Vũ Ngọc Tiến có trích dẫn trong bài viết của ông, đã không về phục vụ đất nước. Nhà văn thắc mắc tại sao họ lại không về. Câu trả lời cũng không khó lắm. Thứ nhất, dù chia rẽ, kèn cựa, chống đối lẫn nhau, về căn bản họ vẫn là những người chống lại chế độ độc tài Cộng Sản, và thứ hai, họ không muốn thấy những đóng góp của họ chỉ để làm giàu thêm giai cấp tư sản đỏ đang như dòi bọ sinh sôi từ xương máu nhân dân chứ không đem lại lợi ích gì cụ thể cho đại đa số đồng bào đang sống trong nghèo khó.
Tôi cũng rất tâm đắc với suy nghĩ của nhà văn Nguyễn Trọng Tạo trong bài viết Đừng Thêm Những Tháng Tư: “Một dân tộc mà lũ trẻ không biết mơ mộng và người già không biết sám hối, đó là một dân tộc bất hạnh. Hãy trân trọng sự sám hối.” và “Hòa giải là nguyện vọng cấp thiết của người Việt Nam dù trong hay ngoài nước”.
Đúng vậy, những ai có trách nhiệm cho điêu tàn, đổ nát, đói nghèo, lạc hậu, mất đất, mất biển phải sám hối trước tiên linh ông bà và xin lỗi trước nhân dân.
Về hòa hợp hòa giải. Trải qua một cuộc chiến dài với quá nhiều những hy sinh xương máu, tôi tin, không một người Việt Nam yêu nước nào không muốn sống trong cảnh hòa bình, không mong đất nước mình cường thịnh, hội nhập vào dòng phát triển của cộng đồng nhân loại. Không chỉ những người lính miền nam, người dân miền nam mà ngay cả những người lính miền bắc, người dân miền bắc, cũng chỉ mong có cơ hội được trở về căn nhà xưa, với ruộng lúa nương dâu, với cha mẹ già đang chờ đợi.
Cuối cùng, như các chúng ta thấy, không ai thương dân tộc Việt Nam bằng chính người Việt Nam. Bên trong những vòng hoa chiến thắng, mặt trái của những tấm huân chương là máu thịt của hàng triệu người Việt Nam đổ xuống, là đói nghèo lạc hậu.
Việt Nam phải vượt qua. Việt Nam phải thăng tiến. Nhưng chướng ngại lớn nhất trên con đường dẫn tới một tương tốt đẹp, tự do, dân chủ, giàu mạnh không phải vì thiếu hòa giải, hòa hợp mà quan trọng hơn vì cơ chế độc tài đảng trị như một bức tường đang chắn ngay trước lối đi lên. Một khi cơ chế độc tài sụp đổ, hòa giải hòa hợp tự nhiên sẽ đến dù lúc đó chưa chắc còn cần thiết nữa.
VOA: Xin cám ơn anh Trần Trung Đạo
Tháng Tư năm nay, cũng như những tháng Tư của hơn 30 năm qua, giới hữu trách Việt Nam đã tưng bừng tổ chức ngày kỷ niệm mà họ gọi là “chiến thắng vĩ đại ngày 30-4-1975.” Họ cũng không quên nhắc tới sự kiện mà họ mô tả là “ở một số nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ, một số nhóm phản động cực đoan thường tổ chức ‘ngày quốc hận’ để hoài niệm một chế độ tàn bạo ở miền nam Việt Nam đã sụp đổ, hoài niệm thời kỳ đất nước bị chia cắt, tìm cách bôi nhọ những gì tốt đẹp đang diễn ra ở Việt Nam”. (Quân Đội Nhân Dân, 18-04-2010) Trong khi đó, một số văn nghệ sĩ ở Việt Nam mới đây đã cho đăng tải trên mạng internet những bài viết kêu gọi mọi người hãy có một cái nhìn mới về biến cố lịch sử này để tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc hòa giải dân tộc, nổi bật là bài “Tùy Bút Tháng Tư” của nhà văn Vũ Ngọc Tiến được phổ biến rộng rãi trên mạng. Ban Việt Ngữ VOA đã tiếp xúc với nhà thơ Trần Trung Đạo, một blogger ở Mỹ (trantrungdao.com) có nhiều bài bình luận về văn học và chính trị Việt Nam được nhiều người ưa thích, để tìm hiểu thêm về vấn đề đáng chú ý này. Mời quí vị theo dõi cuộc phỏng vấn do Duy Ái thực hiện sau đây.
Duy Ái
Washington D.C Thứ Sáu, 30 tháng 4 2010
Việt Nam kỷ niệm 35 năm ngày kết thúc chiến tranh
Những giây phút trước lúc Sài Gòn thất thủ 35 năm trước
VOA: Thưa anh Trần Trung Đạo, là người theo dõi sát tình hình Việt Nam, đặc biệt trong các lãnh vực văn hóa xã hội, chắc anh cũng biết là trong vài tuần nay, các tờ báo do nhà nước kiểm soát đã cho đăng nhiều bài viết dưới dạng “nhìn lại 35 năm” và hô hào cho việc “hòa hợp dân tộc, hàn gắn lòng người”. Trước hết, xin anh chia sẻ với thính giả và độc giả đài Tiếng Nói Hoa Kỳ quan điểm của anh về “hòa giải hòa hợp dân tộc”?
Trần Trung Đạo: Tuần trước tôi có dịp đến thăm viện bảo tàng lịch sử Mỹ tại Washington DC, trong đó có một khu dành riêng cho tổng thống thứ 16 của Mỹ, Tổng Thống Abraham Lincoln. Ngay trước cổng của khu tưởng niệm TT Lincoln, có treo một tấm bảng nhỏ, trong đó ghi một câu trong Tân Ước mà ông yêu thích và thường hay trích dẫn "A house divided against itself cannot stand”, nghĩa là “Một căn nhà phân hóa chống lại chính nó, căn nhà đó không thể đứng vững”.
Tổng thống Lincoln nhấn mạnh đến tinh thần hòa giải trong diễn văn nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ 2, 1865, nghĩa là sau khi quân đội miền bắc đã kết thúc cuộc nội chiến bằng chiến thắng, và TT Nelson Mandela cũng chỉ lập Ủy Ban Sự Thật Và Hòa Giải Quốc Gia sau khi đã đắc cử Tổng Thống Cộng Hòa Nam Phi. Nếu TT Lincoln bỏ tù hết các cấp sĩ quan, viên chức chính quyền miền nam, chắc chắn quân đội của tướng Robert Lee đã không buông súng dễ dàng, và nước Mỹ có thể không có ngày hôm nay. Tương tự, nếu TT Nelson Mandela bắt thiểu số da trắng phải trả giá bằng những cực hình đầy đọa giống như dân da đen đã từng chịu đựng dưới ách phân biệt chủng tộc Nam Phi thì hòa hợp hòa giải đã không đến cho quốc gia này.
Từ những bài học quý giá đó, tôi quan niệm hòa giải không chỉ là một tình cảm mà phải dựa trên các nền tảng chính trị, kinh tế, xã hội cần thiết, và các nền tảng đó chính là sự thật, tự do, dân chủ và bình đẳng giữa những con người cũng như giữa các thành phần trong xã hội.
Giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam có tất cả những phương tiện để thực thi hòa giải hòa hợp dân tộc nhưng họ đã không làm. Lý do, nếu làm thì họ đã không phải là Cộng Sản. Hòa giải hòa hợp dân tộc đặt cơ sở trên sự bao dung, bình đẳng vốn đi ngược lại mục tiêu Cộng Sản hóa Việt Nam bằng các phương tiện bạo lực mà đảng đã và đang dùng.
Do đó, ngày nào chế độc độc tài đảng trị, dù tồn tại dưới bất cứ hình thức nào tại Việt Nam, ngày đó chuyện hòa giải chỉ là một chuyện để bàn cho có và cũng sẽ qua đi theo mỗi tháng Tư.
VOA: Thưa anh Trần Trung Đạo, một câu nói của ông Võ Văn Kiệt liên quan đến vấn đề “hòa giải hòa hợp” được các bên trích dẫn khá nhiều là “một triệu người vui, một triệu người buồn”. Xin anh chia sẻ về câu nói này của ông Võ Văn Kiệt cũng như các ý kiến tương tự khác mà anh đọc trong dịp 30 tháng 4 năm nay?
Trần Trung Đạo: Câu nói của ông Võ Văn Kiệt, ngày 30 tháng 4 “có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn” có lẽ là câu nói tích cực nhất mà chúng ta được nghe từ một người từng đóng vai trò lãnh đạo đảng và nhà nước Cộng Sản Việt Nam trong một thời gian dài sau 1975.
Như tôi đã có lần viết trong một tiểu luận về những lời phát biểu của ông Võ Văn Kiệt, tôi tin đó là một câu nói chân thành, kết quả của nhiều đêm trăn trở.
Tôi vui mừng bởi vì ông đã góp phần tạo nên một môi trường thảo luận những vấn đề sinh tử của đất nước mà trước đây không có được. Các thế hệ trẻ Việt Nam, qua những lời phát biểu của ông, có cơ hội biết đến một quãng lịch sử dân tộc đen tối do chính một trong những người chịu trách nhiệm lớn nhất của đảng và nhà nước trong giai đoạn đó kể ra. Con đường mà dân tộc đã trải qua trong suốt hơn 30 năm không phải là “con đường vinh quang” như các em đang học ở trường, những ngày mà cha chú các em đã sống không phải là “những ngày đẹp nhất dù mai sau đời vạn lần hơn”, nhưng là con đường nhuộm bằng máu và nước mắt, trong đó, “có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn” như ông Võ Văn Kiệt đã nhắc lại.
Ngoài ông Võ Văn Kiệt đã qua đời, một số cán bộ Cộng Sản nổi bật trong giai đoạn chiến tranh như cựu đại sứ Cộng Sản Việt Nam tại Pháp Võ Văn Sung trong buổi phỏng vấn dành cho VietNamNet mới đây cũng nhấn mạnh đến tinh thần hòa giải bằng những câu phát biểu thật “thắm thía”: “Lúc này nếu ai đó trong chúng ta dù từng đứng từ phía nào mà vẫn nuôi lòng thù hận, cản trở hòa hợp dân tộc thì sẽ dần trở nên lạc lõng và thật sự có lỗi với tương lai của chính con cháu mình.”
Thế nhưng cả ông Võ Văn Kiệt lẫn ông Võ Văn Sung, về khái niệm, đều lầm lẫn giữa hòa giải và đầu hàng, giữa hòa hợp và phục tùng, giữa bao dung dân tộc và thương xót người chiến bại. Hòa giải hòa hợp là con đường hai chiều, là chiếc cầu nhiều nhịp. Và như tôi đã phát biểu ở trên, phải dựa trên nền tảng bình đẳng, tự do, dân chủ. Không ai có quyền bắt người khác phải bơi qua sông để hòa giải với mình. Những người lính miền nam cần công lý chứ không cần thương xót.
VOA: Trong hai tuần qua, nhiều độc giả của các trang blog không do nhà nước kiểm soát đã xôn xao bàn tán về bài viết “Tùy Bút Tháng Tư” của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, cũng như mới đây bài viết của nhà văn Nguyễn Trọng Tạo “Đừng Thêm Những Tháng Tư”. Xin anh cho biết ý kiến của anh về hai bài viết này?
Trần Trung Đạo: Trong lúc tôn trọng sự khác biệt về cách giải thích nguyên nhân của cuộc chiến Việt Nam, tôi thông cảm những trăn trở của nhà văn Vũ Ngọc Tiến trong bài viết mới đây Tùy Bút Tháng Tư “Trong số 3,2 triệu người Việt định cư ở hải ngoại hiện nay, số ra đi trước ngày 30/4/1975, kể cả số di cư từ thời thuộc Pháp chỉ khoảng 1 triệu, số còn lại hơn 2 triệu người chủ yếu rời bỏ đất nước từ nửa cuối thập niên 70 và cả thập niên 80 của thế kỷ trước. Thế hệ chúng tôi “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, sao những người được chúng tôi giải phóng lại ào ào bỏ nước mà đi đông đến vậy?”
Tôi nghĩ câu hỏi này nhà văn đặt ra cho giới lãnh đạo đảng chứ không phải cho độc giả của ông. Tuy nhiên, với tư cách là một trong số hơn hai triệu người ra đi sau 1975, tôi nghĩ, lý do cũng rất là đơn giản. Họ ra đi sau 1975 là vì tự do. Nếu Liên Hiệp Quốc và các quốc gia Đông Nam Á không đóng cửa các trại tỵ nạn đầu thập niên 90 thì không chỉ 2 triệu mà có thể 4 triệu, 6 triệu hay nhiều hơn nữa đã bỏ xứ ra đi.
Quê hương Việt Nam sau 1975 là quê hương để nhớ, để thương nhưng không phải để sống.
Và sau 35 năm, ngoài trừ một số rất ít, 300 ngàn người thành đạt như nhiều nguồn ước tính và nhà văn Vũ Ngọc Tiến có trích dẫn trong bài viết của ông, đã không về phục vụ đất nước. Nhà văn thắc mắc tại sao họ lại không về. Câu trả lời cũng không khó lắm. Thứ nhất, dù chia rẽ, kèn cựa, chống đối lẫn nhau, về căn bản họ vẫn là những người chống lại chế độ độc tài Cộng Sản, và thứ hai, họ không muốn thấy những đóng góp của họ chỉ để làm giàu thêm giai cấp tư sản đỏ đang như dòi bọ sinh sôi từ xương máu nhân dân chứ không đem lại lợi ích gì cụ thể cho đại đa số đồng bào đang sống trong nghèo khó.
Tôi cũng rất tâm đắc với suy nghĩ của nhà văn Nguyễn Trọng Tạo trong bài viết Đừng Thêm Những Tháng Tư: “Một dân tộc mà lũ trẻ không biết mơ mộng và người già không biết sám hối, đó là một dân tộc bất hạnh. Hãy trân trọng sự sám hối.” và “Hòa giải là nguyện vọng cấp thiết của người Việt Nam dù trong hay ngoài nước”.
Đúng vậy, những ai có trách nhiệm cho điêu tàn, đổ nát, đói nghèo, lạc hậu, mất đất, mất biển phải sám hối trước tiên linh ông bà và xin lỗi trước nhân dân.
Về hòa hợp hòa giải. Trải qua một cuộc chiến dài với quá nhiều những hy sinh xương máu, tôi tin, không một người Việt Nam yêu nước nào không muốn sống trong cảnh hòa bình, không mong đất nước mình cường thịnh, hội nhập vào dòng phát triển của cộng đồng nhân loại. Không chỉ những người lính miền nam, người dân miền nam mà ngay cả những người lính miền bắc, người dân miền bắc, cũng chỉ mong có cơ hội được trở về căn nhà xưa, với ruộng lúa nương dâu, với cha mẹ già đang chờ đợi.
Cuối cùng, như các chúng ta thấy, không ai thương dân tộc Việt Nam bằng chính người Việt Nam. Bên trong những vòng hoa chiến thắng, mặt trái của những tấm huân chương là máu thịt của hàng triệu người Việt Nam đổ xuống, là đói nghèo lạc hậu.
Việt Nam phải vượt qua. Việt Nam phải thăng tiến. Nhưng chướng ngại lớn nhất trên con đường dẫn tới một tương tốt đẹp, tự do, dân chủ, giàu mạnh không phải vì thiếu hòa giải, hòa hợp mà quan trọng hơn vì cơ chế độc tài đảng trị như một bức tường đang chắn ngay trước lối đi lên. Một khi cơ chế độc tài sụp đổ, hòa giải hòa hợp tự nhiên sẽ đến dù lúc đó chưa chắc còn cần thiết nữa.
VOA: Xin cám ơn anh Trần Trung Đạo
Chủ Nhật, 11 tháng 7, 2010
Luật rừng tại Việt Nam
- Trước năm 1975, Tiến Sĩ Trần An Bài là Thẩm Phán Tòa Án Sài gòn và giảng sư Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia/Việt Nam Cộng Hòa.
- Luật rừng Tại Việt Nam 1 -Tiến Sĩ Trần An Bài
- Luật rừng tại Việt Nam 2-Tiến Sĩ Trần An Bài
- Luật rừng tại Việt Nam 3-Tiến Sĩ Trần An Bài
- Luật rừng tại Việt Nam 4-Tiến sĩ Trần An Bài ;
- Luật rừng tại Việt Nam 5-Tiến sĩ Trần An Bài
- Luật rừng tại Việt Nam 6 - Tiến Sĩ Trần An Bài
NT5 Trương Đình Trung
Thưa quý vị,
"Muốn tiêu diệt chế độ CS điểm chính là Tiêu diệt Đảng CS"
Câu đó mới nghe qua thì hay, nhưng xét kỷ lại thì thừa. Tất nhiên muốn tiêu diệt chế độ CS thì phải tiêu diệt Đảng CS rồi. Không lẽ muốn tiêu diệt chế độ CS thì lại đi tiêu diệt các viên chức hành chánh hạng bét của chế độ ấy trước hay sao?
Điều khác là người Việt Nam quốc gia nên cân nhắc khi nói về trận Điện Biên Phủ.
Không ai phủ nhận vai trò của cá nhân hay của tập thể cấp chỉ huy-lãnh đạo trong các cuộc chiến tranh. Nhưng suy cho cùng cũng không một cuộc chiến nào mà thành quả lại chỉ do một cá nhân hay một tập thể nhỏ của các cấp chỉ huy. Trái lại, chiến tranh luôn luôn là nổ lực, là thành quả của đám đông, của quần chúng. Tất nhiên mức độ đóng góp của mỗi người vào thành quả đó khác nhau: người có công lớn, người có công nhỏ, kẻ có vai trò chính, kẻ vai trò phụ, người có công trong lãnh vực này, kẻ có công trong phương diện khác.Nhưng tổng hợp lại chiến tranh là nổ lực, là thành quả chung của một tập thể rộng lớn. Điều vừa nói áp dụng cho mọi cuộc chiến từ xưa đến nay trong lịch sử. Trong chiến tranh hiện đại, vai trò và sự đóng góp của dân chúng lại càng quan trọng hơn.
Đối với cuộc chiến tranh chống Pháp nói chung, và trận Điện Biên Phủ nói riêng, phần đóng góp của đông đảo người Việt Nam yêu nước là rất lớn và không thể phủ nhận. Chính họ, những người dân Việt bình thường, là thành phần chủ lực của trận chiến và là lực lượng đóng vai quyết định cho sự chiến thắng. Vai trò của Đảng CS trong trận chiến tuy quan trọng, nhưng không là yếu tố quyết định duy nhất mang lại kết quả sau cùng. Vai trò của những tên cố vấn Trung Quốc lại càng không đáng kể.
Cũng đừng quên rằng đảng CSVN, lúc đó, đã dương ngọn cờ độc lập dân tộc, chứ không phải cờ cộng sản chủ nghĩa, để lãnh đạo dân chúng.
Phủ nhận những điều trên đây đồng nghĩa với sự chà đạp lên tinh thần yêu nước và sự hy sinh lớn lao của hàng trăm ngàn người Việt Nam đã đóng góp cho trận chiến Điện Biên. Có thể việc họ, hàng trăm ngàn người đó, tự đặt mình dưới sự chỉ huy-lãnh đạo của đảng CS là một nhầm lẫn; nhưng lòng yêu nước và sự hy sinh, đóng góp xương máu của họ thì không thể bác bỏ được.Ngoài ra, dù muốn hay không, trận Điện Biên vẫn là sự kiện lịch sử dẩn đến việc kết thúc sự đô hộ của Pháp đối với VN.
Hơn nữa, việc dựa vào một số tài liệu chưa được kiểm nghiệm khoa học của chính phủ Trung Cộng hoặc vào sách của một vài học giả người Hoa để dùng làm cơ sở chứng cứ cho việc công khai phủ nhận vai trò quyết định và sự hy sinh lớn lao của đông đảo những người Việt yêu nước đã cống hiến cho chiến thắng Điện Biên là một việc làm không đúng, nếu không muốn nói là thiếu suy nghĩ chín chắn.
Từ góc độ của người Trung Quốc thì việc phủ nhận công lao và tài năng của người Việt trong trận Điện Biên là điều dễ hiểu và có lợi cho họ về mặt tuyên truyền chính trị.Tuy nhiên, khi làm như vậy, không phải Trung Quốc chỉ bôi xấu riêng đảng CSVN và những cấp chỉ huy CSVN vào thời đó; mà chính ra họ đã hạ nhục người Việt, như một dân tộc, nói chung. Một dân tộc đã hàng ngàn năm chống chõi với Bắc Phương, đã có hàng trăm chiến công hiển hách, đã có Vạn Kiếp Binh Thư bị dân tộc khác lấy cắp, mà nay trong một trận đánh lịch sử lại phải có sự cố vấn của vài tên Mao-Cộng mới thắng được! Nhục thật! Nhưng đó là việc của người Trung Quốc. Còn chúng ta là người Việt sao lại tự mình trở thành cái loa tuyên truyền không công và phụ hoạ cho kẻ luôn rắp tâm xâm lấn bờ cõi của nước mình? Sao chúng ta lại có thể tự mình thừa nhận rằng bọn Mao Cộng là kẻ có công đầu trong cuộc chiến chống lại thực dân Pháp của người Việt Nam ? Làm vậy tức là đứng chung lập trường với người Hán để hạ thấp danh dự của chính dân tộc mình rồi! Hay diễn giả là người Hán chăng ? Hay diễn giả đã vì quá hăng say công kích đảng CSVN nên vô tình nối giáo cho kẻ thù ngàn đời phương Bắc?
Điểm khác nữa là chúng ta chống Cộng Sản là chống cho quê hương VN, để xây dựng được một chế độ chính trị tốt hơn cho toàn dân VN. Để thực hiện được mục tiêu cao cả đó, đòi hỏi tất yếu là mọi vận động chính trị phải được sự hưởng ứng và tham gia của đông đảo dân chúng ở trong Nước. Nghĩa là việc vận động quần chúng là công tác hàng đầu, quan trọng nhất. Nhưng liệu xem là với lập luận như của vị tiến sĩ diển giả kia thì sẽ thuyết phục được bao nhiêu người trong Nước đồng ý với Ông?
Tóm lại, chống CS không chỉ đơn thuần là cứ công kích, chữi bới CS bằng đủ mọi luận điệu có được. Điều quan trọng là công kích, hay chỉ trích, sao cho vừa hợp lý vừa hợp tình, có sức thuyết phục. Quan trọng nhất là, trong khi công kích, đừng quên rằng chúng ta là người Việt, người Việt yêu nước, người Việt Quốc Gia; nghĩa là những người luôn luôn mang một ý thức dân tộc vững vàng.
Kính,
Trung nt5
Thứ Năm, 8 tháng 7, 2010
DẦU TRÀN
Với phương tiện truyền thông nhanh chóng thời nay. Tai nạn nổ mỏ dầu ngoài khơi Tiểu bang LOUISIANA được thông báo rộng rãi.
Tất cả chúng ta ( ngoài T/B LOUISIANA ) đều thấy sự việc trầm trọng. Nhưng trầm trọng như thế nào,chỉ có những ngườì tại chỗ mới cảm nhận một cách chính xác,vì chính họ bị ảnh hưởng trực tiếp, nhất là người VIỆT chúng ta tại Louisiana làm nghề đánh cá.
Qua sự sưu tầm, tổng hợp và nhận xét trong bài DẦU TRÀN dưới đây.NT5 TRƯƠNG ĐÌNH TRUNG đã giúp chúng ta biết một cách rõ hơn những gì mà chúng ta đã biết một cách khái quát qua phương tiện truyền thông bấy lâu nay.
Cám ơn Niên Đệ NT5 TRƯƠNG ĐÌNH TRUNG.
Xin giới thiệu cùng các bạn đồng môn và thân hữu.
NT3 NGUYỄN ÍCH HẢI.
TẢN MẠN QUANH VỤ DẦU TRÀN Ở VỊNH MEXICO
Ngày 20/4/2010, tàu khoan dầu Deepwater Horizon, khi đang khoan trên giếng dầu Macondo thuộc khu vực Mississipi Canyon Block 252, nằm khoảng 45 miles về phiá Nam của duyên hải Louisiana, thì phát nổ và cháy. Độ sâu ở vùng này là khoảng 5000 bộ Anh (chừng 1 mile). Dàn khoan này đang khoan tới độ sâu chừng hơn 3 miles (18,000 bộ Anh) tính từ đáy đại dương và đang vào vùng có dầu. Dàn khoan đang đi vào bước cuối trong giai đoạn thăm dò, các chuyên viên đang chuẩn bị để đậy giếng khoan bằng một casing, chờ đợi kết quả xét nghiệm mẫu dầu để quyết định kế hoạch cho bước khai thác sản xuất kế tiếp.
Ước tính sơ khởi giếng khoan này có trữ lượng khoảng 100 triệu thùng dầu. Đó tuy không là một số lượng lớn lắm so với những giếng khoan khác trong vùng Vịnh Mexico, nhưng dù sao cũng là một sự thành công và bộ phận Thăm Dò của công ty BP đang chuẩn bị ra thông báo chính thức về sự thành công của giếng khoan. Một năm trước đó tàu khoan Deepwater Horizon, thuộc về công ty dịch vụ dầu Transocean, đã khoan thăm dò thành công cho hảng BP, một giếng khoan khác ở độ sâu 35,000 bộ Anh, cũng trong vùng Vịnh Mexico, với trữ lượng đến 3 tỉ thùng dầu! Điều đó cho thấy tàu khoan Deepwater Horizon là một tàu khoan lớn có thành tích với một đội ngũ nhân viên lành nghề. Giá thuê tàu khoan Deepwater Horizon rất đắt, BP đã phải trả hơn 500,000 dollars tiền thuê mỗi ngày cho công ty Transocean.
Tàu Deepwater Horizon dài 396 bộ (khoảng 130 mét), rộng 256 bộ (khoảng 85 mét), cao khỏi mặt nước khoảng 80 bộ (chừng 25 mét). Tổng số nhân viên là 135 người. Vụ nổ phát ra ngọn lữa từ sàn tàu phụt lên cao nhiều trăm mét đã khiến 11 chết và 9 mất tích.
Hiện vẫn chưa có kết luận chính thức về nguyên nhân của vụ nổ. Nhưng thông thường, các vụ nổ dàn khoan dầu là do hệ thống ngăn chận hơi đốt và dầu dội lên từ đáy giếng đã không được lắp đặt đúng theo yêu cầu an toàn kỹ thuật khiến áp suất rất lớn ở đáy giếng đã đẩy hơi đốt và dầu ngược lên dàn khoan, gây ra nổ và hoả hoạn. Bộ phận quan trọng nhất là Blowout Preventer (BOP) nằm ngay miệng giếng (wellhead), thường do các robots, được điều khiển từ xa, đóng lại khi phát hiện thấy có triệu chứng hơi đốt và dầu tràn ngược lên một cách bất thường. Mặt khác, công đoạn lắp đặt các ống khoan (casings) trong và các ống khoan ngoài sao cho hoàn toàn đồng tâm với mũi khoan, và việc đổ cement quanh các ống khoan đó cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc ngăn chận hơi đốt-dầu tràn ngược. Thông thường để bảo đảm cho công đoạn này, các ống khoan được gia cố xung quanh bằng các centralizers. Công dụng của các centralizers là duy trì sự đồng tâm của các ống khoan, giúp hổn hợp Mud cũng như cement được phân bố và thay thế đồng đều, không tạo ra kẻ hở. Theo điều tra của Uỷ Ban Năng lượng Hạ Viện thì mũi khoan Macondo chỉ có 6 thay vì 21 centralizers như khuyến cáo kỹ thuật của công ty dịch vụ Halliburton.
36 giờ sau vụ nổ, tàu khoan Deepwater Horizon chìm xuống đáy sâu 5000 bộ (khoảng 1 mile = 1.6 km), cách giếng Macondo mà nó khoan, khoảng 300 mét. Tàu chìm kéo phần dàn ống, danh từ chuyên môn Anh ngữ là Marine Riser, kể từ miệng giếng dầu lên đến tàu ngã đổ theo và nứt ra ở ba điểm khác nhau, dầu đã từ đó những chỗ đó phun ra. Bộ phận quan trọng để bịt giếng dầu trong trường hợp khẩn cấp là Blow Out Preventer (BOP) của giếng khoan, trong trường hợp này, không hiểu vì lý do gì đã không hoạt động được theo sự dự liệu của kế hoạch an toàn.
Tàu khoan Deep Horizon là của công ty Transocean .Transocean được công ty BP thuê khoan theo thiết kế của BP. Ngoài ra, còn có công ty Anadarko Petroleum với phần hùn 25%, và công ty Mitsui Oil Exploration với 10% hùn vốn. Trên tàu khoan còn có một số nhân viên của công ty Halliburton (do Phó TT Dick Cheney làm CEO trước đây) phụ trách về kỹ thuật xi-măng cho mũi khoan. Điểm quan trọng khác về liên đới trách nhiệm là cơ quan Minerals Management Services (MMS) của Chính phủ Liên Bang chịu trách nhiệm giám sát các hoạt động của các công ty dầu, kiểm tra điều kiện an toàn của các giàn hoặc tàu khoan theo khuyến cáo của OSHA (Occupational Safety and Health Administration).
BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ:
Có hai khía cạnh trong việc đối phó với việc dầu tràn: dầu loang trên mặt biển và chận đứng dầu tràn lên từ miệng giếng.
Đối với dầu loang trên mặt biển, nhiều phương cách khác nhau được dùng phối hợp. Trước hết là tìm cách ngăn bớt không cho dầu lan nhanh vào gần bờ biển. Kế đến là dùng hoá chất (dispersants) để làm tan loãng dầu. Tiếp nữa là hút dầu vào các tàu có bồn chứa (skimming). Một biện pháp khác là dùng lữa đốt các mảng dầu lớn. Ở những nơi dầu đã lan vào bờ, đã hình thành các oil tars lẫn với cát, người ta phải thu thập các tars dầu đó đựng vào các túi plastic và đem đi.
Việc hút dầu loang trên mặt vào các tanker ships gặp trở ngại là việc vận chuyển dầu bằng những tankers lớn đã từ lâu không thuộc lãnh vực kinh doanh được người Mỹ chú ý, vì vậy hiện đa số những tàu tankers lớn lại thuộc sở hữu của các quốc gia khác. Nhưng theo luật hàng hải của Mỹ thì các tàu tankers ngoại quốc lại không được tự do ra vào vùng biển của Mỹ; họ chỉ được đi theo những hải trình chấp thuận trước. Đây chính là lý do vì sao, tuy có nhiều quốc gia sẳn lòng đưa các tàu tankers lớn vào giúp, nổ lực quốc tế của việc hút vớt dầu vẫn chưa tiến hành nhanh như mong đợi.
Khó khăn nhất là việc chận đứng dầu tiếp tục tràn lên từ giếng dầu. Bộ phận quan trọng nhất để chặn tất cả hơi đốt và dầu tràn lên từ miệng giếng (wellhead) là BOP đã, vì một lý do nào đó, không vận hành được nên dầu vẫn tiếp tục trào lên. Khi vụ nổ xảy ra, tàu khoan Horizon chìm, kéo dàn ống (marine riser) nối từ miệng giếng lên đến tàu khoan dài cả một mile ngã đổ theo, gây ra 3 chỗ nứt khác nhau trên dàn ống đó gần với miệng giếng. Dầu đã từ 3 chỗ nứt đó liên tiếp phun ra. Lúc đầu người ta đã dùng robots để tìm cách bịt những chỗ nứt đó lại, nhưng không thành. Người ta cũng cố gắng thiết kế một vòm chụp lớn, do robots đưa xuống úp lên trên miệng giếng để từ đó chuyền dầu phun ra lên các tàu trên mặt biển. Nhưng kết quả không giảm được lượng dầu đáng kể tiếp tục tràn ra. Phương cách khác là đào những giếng khoan phụ (relief well) gần đó để giảm áp suất của giếng chính, khiến lượng dầu thôi tràn lên. Nhưng việc đào giếng khoan phụ giảm áp suất đòi hỏi nhiều thời gian; mất cả vài tháng mới xong. Trong lúc đó thì lượng dầu tràn ra hàng ngày có thể lên đến 60,000 thùng!
VẮN TẮT VỀ HẢNG BP.
Ngoài ra, những điều tra của ProPublica- một tổ chức bất vụ lợi chuyên đưa ra những điều tra báo chí phục vụ công ích- thì BP còn vấp phải nhiều sai phạm khác về an toàn sản xuất và bảo vệ môi sinh. Theo ProPublica thì đã có nhiều điều tra và cảnh báo của các tổ chức quốc tế về việc nhân viên quản trị của BP đã làm dối trong các quy trình an toàn, sử dụng dụng cụ quá cũ ảnh hưởng đến mức độ chính xác của việc đo đạc các chỉ số an toàn, hoặc ngăn cấm hay đe doạ công nhân không được lên tiếng về những vấn đề an tòan của Công ty, hay làm ngơ đối với các yêu cầu an toàn của các cơ quan chính phủ, cản trở hay làm nản lòng các viên chức của cơ quan thực hiện việc điều tra, v.v…
Năm 1999, BP đã bị kết án (felony conviction) ở Alaska vì đã xả phế liệu một cách phi pháp (illegal dumping), gây tổn hại nặng nề cho môi trường và đời sống. Vụ án đó khơi mào một loạt các điều tra về những vi phạm của BP đối với môi trường trong suốt thời gian dài BP khai thác dầu ở Alaska từ thập niên 1960 trở đi. Loạt điều tra đó phơi bày nhiều vi phạm nghiêm trọng của BP đối với việc bảo vệ môi trường. Để được tiếp tục khai thác, BP đã phải chấp nhận ký cam kết về một kế hoạch 5 năm tự đặt dưới sự theo dõi của US EPA (Cơ quan Bảo vệ Môi trường của Mỹ).
Hoặc như năm 2002, giới chức ở California đã khám phá ra BP nguỵ tạo các báo cáo an toàn và có đến 80% các phương tiện tồn chứa dầu của Công ty ở vùng lọc dầu Los Angeles là không đạt tiêu chuẩn về bảo trì chống rò rỉ. Để khám xét các bồn chứa dầu của BP, các điều tra viên đã phải xin trát toà (warrants).Vì sự rò rỉ đó, cuối cùng BP đã phải dàn xếp ngoài toà bồi thường cho South Coast Air Quality Management Distric 100 triệu dollars!
Vụ nổ tại trạm lọc dầu Texas năm 2005, giết chết 15 công nhân nói đến ở đoạn trước, theo các kết quả điều tra, gây ra là do vi phạm quy định an toàn, và không tuân thủ quy trình sản xuất. Sau vụ đó, BP có hứa sẽ cải thiện quá trình công nghệ ở trạm lọc dầu này cho an toàn hơn, nhưng về sau BP đã không thực hiện lời hứa đó và bị OSHA (Occupational Safety and Health Administration) phạt 87 triệu dollars.
Riêng trong vụ nổ dầu Deepwater Horizon này, theo Uỷ Ban Năng Lượng và Thương Mãi Hạ Viện thì công ty BP, vì muốn tiết kiệm chi phí và rút ngắn thời gian, đã tiến hành khoan mỏ dầu Macondo bất chấp những đòi hỏi kỹ thuật thông thường và những bước cần thiết về an toàn. Trong thư gởi cho ông Tony Hayward, CEO của BP, Ủy ban nêu ra 5 thiếu sót trong quyết định của BP: (1)Dùng thiết kế với ít rào cản (barriers) để chận dòng hơi đốt từ dưới lên. (2) Dùng quá ít centralizers- 6 thay vì 21 theo tiêu chuẩn kỹ thuật- dùng trong việc bảo đảm độ đồng tâm của các ống khoan (casing) có đường kính khác nhau. (3) Không tiến hành thử nghiệm hiệu năng của quá trình đổ cement bảo vệ ống khoan.(4) Không thử nghiệm trước khả năng chu lưu tốt của hổn hợp bùn khoan có chứa hơi đốt ra khỏi giếng khoan.(5) Đã không bịt chặt được miệng giếng (wellhead) để cản áp suất dội lên từ dưới giếng. Do muốn giành lại thời gian đã bị chậm trễ nhiều so với kế hoạch dự liệu trước đó, BP đã vấp phải 5 quyết định sai sót vừa nêu.
Tuy đã gởi thư trước cho Tony Hayward với những vấn đề nêu ra như trên, nhưng tại cuộc điều trần ngày 15/6/2010, Ủy Ban Năng lượng đã không nhận được một sự trả lời nào thoả đáng từ ông Tony Hayward, CEO của BP. Ông Hayward nhất mực phủ nhận mọi quyết định sai sót do Uỷ Ban nêu ra cho công ty BP, lấy cớ rằng việc điều tra nguyên nhân của vụ cháy-nổ vẫn còn đang được tiến hành và chưa có kết luận cuối cùng. Các Dân Biểu của cả hai đảng Cộng hoà và Dân Chủ, ngoại trừ Dân Biểu Cộng Hoà Joe Barton, đều không hài lòng với sự trả lời của ông Hayward, cho rằng ông này đã cố tình “ ngậm miệng” (stonewalling) không chịu cung cấp đầy đủ thông tin; người ta nghi ngờ rằng thái độ của Hayward là để dự phòng các vụ kiện dân sự sẽ xảy ra cũng như việc điều tra những vi phạm hình sự có thể có đối với BP liên quan đến vụ nổ.
Trước cuộc điều trần nói trên một ngày, do áp lực mạnh mẽ của chính phủ Obama, BP đã đồng ý bỏ ra 20 tỉ dollars vào một escrow fund, nghĩa là quỹ do một trung gian (third party) quản lý, chia ra 5 tỉ mỗi năm, nhằm chi trả cho những khiếu nại thiệt hại của cư dân trong vùng Vịnh Mexico, gây ra do hậu quả của vụ nổ Deepwater Horizon. Đó là một số tiền rất lớn so với mức trách nhiệm được quy định trước đây là 75 triệu dollars. Tuy vậy, một số chính khách đảng Cộng Hoà, vì một lý do chính trị nào đó, lại phản đối việc làm đó của TT Obama. Dân biểu Joe Barton, chẳng hạn, tại cuộc điều trần trước Uỷ Ban Năng Lượng, đã xin lỗi BP về việc phải bỏ ra 20 tỉ dollars đó và Ông cho rằng TT Obama đã tống tiền (shakedown)BP! Một số các chính khách Cộng Hoà khác cũng cho rằng, bằng việc áp lực BP phải bỏ tiền ra như vậy, chính phủ Liên Bang đã can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của các công ty tư nhân! Thái độ này của các chính khách CH đã gây không ít bất bình từ dân chúng vùng Vịnh Mexico.
HẬU QUẢ CỦA VỤ NỔ:
Vụ dầu tràn từ tàu khoan Deepwater Horizon đang trực tiếp gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho đời sống của dân các vùng liên hệ thuộc các bang Louisiana, Mississipi và Alabama.
Trước hết là đối với Ngư nghiệp. Kỹ nghệ hải sản của bang Louisiana trị giá 2.4 tỉ dollars, cung cấp đến 40% hải sản cho cả nước, tuyển dụng khoảng 27,000 nhân công. Vụ tràn dầu đã khiến đến 25% diện tích biển của Vịnh, nghĩa là ¼, do vấn đề an toàn đã bị đặt vào vùng cấm các hoạt động ngư nghiệp; và sự giới hạn này ảnh hưởng trực tiếp đến đới sống của hàng ngàn ngư dân, và gián tiếp đến các dịch vụ hải sản khác của khu vực.
Vụ tràn dầu cũng ảnh hưởng đến đời sống động vật trong vùng biển. Cho đến nay đã tìm thấy hơn 500 chim biển, gần 250 rùa, và khoảng 30 động vật hữu nhủ khác, gồm cả cá heo, bị chết do dầu. Đây là những dấu hiệu rất đáng ngại về hậu quả nguy hại đối với môi trường hải dương của Vịnh.
Nổi lo ngại đối với môi trường hải dương còn lớn hơn nữa khi nhiều Plumes dầu, một dạng hổn hợp loãng của dầu thô và khí mê-tan không hoà tan, không nổi trên mặt nước, nhưng lơ lững ở trong nước ở độ sâu hàng ngàn bộ Anh, hợp thành từng khối dài hàng chục miles, rộng đến 5 miles và dày từ 300 đến 3000 bộ Anh, đã được các nhà khoa học trường Đại học Florida phát hiện gần nơi dầu tràn. Người ta còn gọi những Plumes này là những sông dầu ngầm (undersea rivers of oil). Tác hại trước hết của Plumes là làm suy giảm tỉ lệ khí Oxy hoà tan trong nước biển (Oxygen depletion/hypoxia), ước tính xuống còn chừng 30%. Mức độ khí oxy hoà tan thấp như vậy sẽ rất độc hại cho những loài sống sâu dưới nước như rùa, cá voi, cá mập, cá tuna, mực, bạch tuộc, và rất nhiều các loại rong tảo hữu ích khác của đời sống hải dương. Tất nhiên sự nguy hại đó sẽ có tác động dây chuyền, ảnh hưởng cả đến con người, khi nhìn từ gốc độ môi sinh học như một tổng thể.
Ngay cả ngành du lịch của các bang trong vùng Vịnh cũng sẽ bị ảnh hưởng. Nặng nhất là bang Florida, nơi mà hàng năm ngành du lịch cung cấp đến gần 60 tỉ doanh thu, và công việc làm cho hơn 1 triệu người. Tin tức về dầu tràn từ Vịnh Mexico xuống làm ô nhiểm các bãi biển chắc chắn sẽ làm giảm số lượng du khách đến Florida trong mùa hè này.
DẦU HỎA VÀ CHÍNH TRỊ
Dầu hoả và chính trị quốc tế là một đề tài rộng lớn,vượt rất xa khuôn khổ của một bài viết ngắn gọn. Nhân do vụ nổ dầu ở tàu khoan Deepwater Horizon của hảng BP, người viết chỉ xin lược sơ những nét lớn lao của mối quan hệ dầu hỏa-chính trị bắt đầu bằng việc nói đến sức mạnh tài chánh của BP và những dính líu chính trị đầu tiên của công ty đó trên phạm vi quốc tế. Kế đến điểm lại vài biến cố chính trị quốc tế liên quan và sau cùng về hai cuộc chìến tranh hiện xảy ra ít nhiều dính líu đến dầu hoả.
Trước hết xin ghi ở đây vài con số về khả năng tài chánh của BP.
• Trước hết là về tổng trị giá doanh vụ hàng năm:
2009 - $239,272,000,000
2008 - $361,143,000,000
2007 - $284,365,000,000
2006 - $265,906,000,000.
• Kế đến là tổng lợi tức thuần (sau khi đóng thuế):
2009 - $16,578,000,000
2008 - $21,157,000,000
2007 - $20,845,000,000
2006 - $22,315,000,000
Lương của CEO năm 2009, theo như chính lời khai của ông Tony Hayward trước Hạ viện, là 6 triệu dollars, chưa kể bonus!
Để làm rõ thêm ý niệm của những con số nêu trên xin vui lòng so sánh với Tổng Sản Phẩm Nội Địa của VNCS, một quốc gia với 83 triệu dân, năm 2009 là $92,600,000,000. Hoặc như GDP của Thái lan cùng năm là $262,000,000,000.Hay của Philippines là $160,600,000,000.
Từ khả năng tài chánh trên đây, BP có một Uỷ Ban Hành động Chính trị (BP’s Political Action Committee) riêng, chuyên lo về các hoạt động chính trị, đặc biệt là các vận động hành lang Quốc Hội và các cơ quan Chính phủ. Uỷ ban này chỉ riêng trong năm 2009 đã chi đến 16 triệu dollars cho các vận động đó!
Trên bình diện quốc tế, sự dính líu của BP đến chính trị quốc tế bắt nguồn từ các dự phóng chiến lược của đế quốc Anh dựa trên nguồn năng lượng dầu hoả mới phát khởi từ trước Thế Chiến Thứ Nhất. Đô đốc Fisher là người đầu tiên đã đưa vấn đề canh tân hạm đội của Hải quân Hoàng gia Anh bằng việc chuyển từ dùng than đá qua dùng dầu hoả làm nguồn năng lượng cho tàu chiến. Đệ Nhất Thế Chiến đã hiện thực và củng cố sáng kiến đó của Đô đốc Fisher, và dầu hoả đã trở nên nguồn năng lượng trung tâm của mọi tính toán mang tính quyết định cho các chiến thắng quân sự. Phe Đức-Áo-Hung đã thua chỉ vì mất dần khả năng làm chủ được nguồn dầu hoả cung cấp đủ cho cơ giới quân sự của phe mình. Ngay sau Đệ I Thế Chiến, người ta đã viết rằng “chiến tranh không dầu hoả là điều không thể tưởng tượng được (War without oil would be unimaginable). Thế Chiến Thứ Hai tái hiện cảnh tranh giành khốc liệt các kho dầu, như là mục tiêu hàng đầu, của cả hai phe. Động cơ chính khiến Hitler đột ngột đơn phương xé bỏ Hiệp ước Bất tương xâm, hạ lệnh tấn công Nga Sô-viết năm 1941, là để nhanh chóng chiếm cho được mỏ dầu Baku ở Ajerbaijan thuộc Liên Xô, vì lúc đó Đức không kiểm soát được một nguồn dầu hoả nào quan trọng cả, còn các nhà máy sản xuất nhiên liệu hổn hợp lại không cung ứng đủ nhu cầu chiến sự. Giai đoạn thất trận của Đức đã bắt đầu từ khi chiến dịch chiếm Baku bất thành. Còn Nhật Bản đã bất ngờ tấn công Pearl Harbor cũng chỉ vì đó là căn cứ hải quân chẹn họng đường hàng hải vận chuyển dầu của Nhật trên Thái Bình Dương từ Indonesia về. Vào giai đoạn, cuối, bộ máy chiến tranh của Nhật bị tê liệt vì lượng dầu hoả cung cấp bị phong toả giảm xuống chỉ còn 4% so với lượng dầu lúc ban đầu của cuộc chiến.
Từ sau Thế Chiến Thứ hai, có thể nói rằng không tình hình nơi nào nêu bật được mối quan hệ mật thiết dầu hỏa-chính trị hơn cho bằng tình hình Trung Đông. Trước đó, do trữ lượng lớn lao dầu hoả của khu vực này, ngay khi kết thúc Thế Chiến Thứ Nhất, Anh-Pháp, với mật ước Sykes-Pikot, đã chia nhau các vùng đất lớn của Trung Đông vốn thuôc đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ). Sự chia chác này đặt căn bản trên các khu vực mỏ dầu, xem thường lằn ranh về văn hoá và chủng tộc của dân bản xứ; tạo ra Kuwait, và hai quốc gia mới với dân Kurdish và Arabs trộn lẩn một cách khiên cưỡng là Syria và Iraq. Chính sự tuỳ tiện trong việc phân định ranh giới trong vùng này đã góp phần vào sự bất ổn chính trị của Khu vực kéo dài mải cho đến ngày nay.Các công ty dầu hoả Anh, Pháp và Mỹ, do sự chia chác kể trên, đã hoàn toàn kiểm soát dầu hoả của Trung Đông.
Thời hậu chiến, tuy vai trò của đế quốc Anh có phần suy giảm, nhường bước cho Mỹ, nhưng các công ty dầu hoả Anh-Mỹ vẫn giữ vị thế thống lĩnh vựa dầu Trung Đông. Nổi bật nhất là công ty Anglo-Iranian Oil Company(AIOC), tiền thân của BP, đã nắm độc quyền dầu hỏa ở Iran, là nước có trữ lượng lớn nhất vào thời đó. Nhưng sự tham lam của AIOC khiến người Iranian bất mãn, và với tinh thần quốc gia ngày càng mạnh, đã bầu lên một quốc hội mới với vị thủ tướng tên là Mohammed Mossadegh có chủ trương quốc hữu hoá các mỏ dầu với mức bồi hoàn thỏa đáng.
Chính phủ Anh, với sự hậu thuẩn của Mỹ, đã phản ứng dữ dội đối với việc quốc hữu hoá mỏ dầu của thủ tướng Mossadegh, hạm đội Anh được đưa đến dọc duyên hải Iran, không quân được chuyển đến Iraq giáp giới Iran. Ngoài ra Anh-Mỹ cùng nhau cấm vận và phong toả tài chánh Iran, gây cho Iran vô vàn khốn đốn. Cuối cùng, tháng 8 năm 1953, với sự hoạt động tích cực của CIA, thủ tướng Mossadegh bị lật đổ, quyền lực thật sự của Iran được trao lại cho vua Reza Shah Pavlevi là người trước đây chỉ giữ vai trò nguyên thủ hình thức (formal figurehead), nhưng nay được sự hậu thuẩn mạnh của Anh-Mỹ. Với sự nắm quyền của Shah, quyền lợi của các công ty dầu, nhất là của AIOC, lại được củng cố như trước, kéo dài cho đến năm 1979, khi Shah bị cuộc cách mạng Hồi giáo (Islamic Revolution), do Ayatollah Khomeini lãnh đạo, nổi lên lật đổ.
Một biến cố khác nói lên mối quan hệ dầu hoả-chính trị là cuộc chiến tranh Yom-Kippur vào tháng 10/1973 giữa Ai-cập, Syria và Do Thái, và theo sau cuộc chiến tranh đó là cuộc khủng hoảng dầu hoả thế giới lớn nhất của thế kỷ 20 gây ra do sự cấm vận dầu hoả của các quốc gia Ả rập đối với phương Tây để trả đủa việc khối này đã ủng hộ Do Thái. Cuộc khủng hoảng dầu hỏa, khiến giá dầu tăng 400%, gây ra nhiều hậu quả kinh tế, chính trị và xã hội lớn lao cho Mỹ, Tây Âu, Nhật và các nước khác trên thế giới. Thất nghiệp lan tràn, nhiều nội các sụp đổ, một số quốc gia đã phải áp dụng chính sách định mức trong việc dùng xăng dầu, giá lương thực cũng theo giá dầu mà tăng cao vùn vụt.
Về sau này có tác giả cho rằng cuộc chiến tranh Yom-Kippur giữa Do Thái-Ả rập là một âm mưu của các công ty dầu hỏa và giới tài phiệt ngân hàng Anh-Mỹ, thông qua bàn tay của Henry Kissinger, lúc đó vừa là Bộ Trưởng Ngoại Giao vừa là Cố Vấn An Ninh Quốc gia, dàn dựng ra. Có thể nói Kissinger là một trường hợp đặc biệt; trong lịch sử chính trị của Mỹ, hầu như chưa có một bộ trưởng ngoại giao nào lại có quyền hạn rộng rãi như Ông. Trong lúc TT Nixon đang gặp rắc rối vì vụ Watergate, thì Kissinger gần như trọn quyền thao túng cả trong lãnh vực ngoại giao lẩn trong lãnh vực tình báo. Cũng theo các tác giả đó thì Kissinger đã gài bẩy để cho Ai Cập và Syria tấn công Do Thái, xong rồi cung cấp tin tức tình báo và yểm trợ để cho Do Thái đánh bại khối Ả Rập. Làm vậy có hai điều lợi: thứ nhất là giúp Do Thái, một đồng minh chiến lược của Mỹ, mở rộng lãnh thổ, củng cố thế mạnh của mình; thứ hai là gây công phẩn trong khối Ả Rập dẩn đến việc cấm vận dầu hỏa, giá dầu gia tăng cao, mà dầu lại được mua bán trên thị trường quốc tế bằng dollars, như vậy sẽ giúp dollars mạnh lên và giới ngân hàng Anh-Mỹ được lợi. Người ta cũng trưng bằng cớ là Arabia Saudi, nước có lượng dầu lớn nhất trong khối OPEC, đã bí mật thỏa thuận, thông qua cơ quan Saudi Arabian Monetary Agency (SAMA), dùng phần lớn tiền thu được do dầu hoả tăng giá để tài trợ cho sự thiếu hụt ngân sách của chính phủ Mỹ, bằng cách đầu tư vào những ngân hàng ở Mỹ do sự hướng dẩn của viên chức Bộ Ngân Khố.
Tất nhiên, cách giải thích như trên nghe rất hẩp dẩn, nhưng không chắc đã là lời giải thích hợp lý và đầy đủ duy nhất về nguyên nhân của cuộc khủng hoảng dầu, lớn lao và phức tạp, năm 1973. Nhưng chí ít lối giải thích như vậy đã giúp nêu lên được vai trò quan trọng của dầu hoả trong chính trị quốc tế.
Gần đây nhất, có hai sự kiện thời sự chính trị quốc tế lớn lao khác ít nhiều dính líu đến dầu hoả; đó là các cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan.
Toàn bộ hệ thống truyền thông đồ sộ của Mỹ, và cả của Anh quốc, đã được huy động đến tối đa công suất để tuyên truyền cho những lý do vừa nêu của việc tấn công Iraq vào tháng 3/2003 bởi liên quân Anh-Mỹ và một số nước a tòng. Nhưng thực tế xảy ra từ đó đến nay cũng như một số tài liệu phơi bày cho thấy rằng những lý do được đưa ra để biện minh cho chiến tranh Iraq của chính phủ TT Bush không có sức thuyết phục mạnh đối với những ai có sự suy tư khách quan, công bằng và độc lập.
Trước nhất, cho đến nay giới thạo tin đều thừa nhận rằng không hề có một mối quan hệ nào giữa chế độ Saddam Hussein và bọn khủng bố Al-Qadae cả. Cũng không một ai, kể cả chính phủ Bush và CIA, trưng ra được bất kỳ một bằng chứng nào là Saddam Hussein đã dính líu với bọn khủng bố ngày 9/11 ở Newyork. Trái lại người ta hiện có nhiều chứng cớ là Saddam Hussein không đồng ý và không ưa các chủ trương của Al-Qadae, đôi khi ngay cả truy bắt các thành viên Al-Qaeda nữa.
Về vũ khí WMD, hoặc nổ lực của Saddam Hussein để thủ đắc vũ khí nguyên tử, thì đến nay mọi sự đều đã rõ. Từ sau khi TT Bush tuyên bố Mission complete cho đến nay, hằng nhiều năm sau ngày quân đội Anh-Mỹ kiểm soát toàn bộ Iraq, người ta đã chẳng tìm thấy dấu vết nào của những vũ khí như vậy cả. Có chăng là chỉ một số lượng nhỏ những vũ khí sinh hoá học còn lưu lại từ thời chiến tranh Iran-Iraq trước kia. Nhưng đối với các loại vũ khí hoá học này thì có nhiều tài liệu cho thấy là trong suốt cuộc chiến Iran-Iraq, Saddam Hussein đã được đại diện của TT Reagan, thời đó là ông Donald Rumsfeld, tiếp xúc và ngầm giúp đỡ, và chính phủ Mỹ lúc đó đã biết rõ việc Saddam Hussein đang dùng vũ khí hoá học, chế tạo được với sự giúp đỡ của một số công ty hoá chất Mỹ, để chống Iran. Câu hỏi được đặt ra là tại sao nước Mỹ thời của TT Reagan lại làm ngơ cho việc Saddam Hussein xử dụng vũ khí hoá học, nhưng nay đến thời của TT Bush lại lấy đó làm một nguyên cớ khai chiến với Saddam Hussein. Có lẽ trước kia chính phủ của TT Reagan muốn mượn tay Saddam Hussein để trả thù Iran về vụ nước này đã quốc hữu hoá dầu hoả và đuổi các công ty dầu của Mỹ ra sau ngày cuộc cách mạng Hồi giáo thành công?
Riêng vấn đề lật đổ chế độ độc tài của Saddam Hussein để giúp dân Iraq xây dựng một chế độ dân chủ thì những ai am tường tình hình Iraq từ 7 năm qua đều dễ dàng nhận ra đó chỉ là sự tuyên truyền nhằm biện minh khéo léo cho cuộc chiến đẩm máu mà thôi. Những lời hô hào của chính phủ Bush về “Democracy is on the March” hoặc “the export of demorcracy” (xuất cảng Dân chủ) thực hiện bằng quân viễn chinh qua Iraq không khỏi khiến người Việt chúng ta nhớ lại sự hô hào trước đây trong thế kỷ 19 về việc “ khai hoá cho dân An Nam” của thực dân Pháp hoặc việc tượng của viên toàn quyền Paul Bert cao lớn đang dắt tay một người trẻ Việt nam nhỏ nhắn “đi lên con đường tiến hoá” được dựng trong các công viên ở Hà Nội thời xưa. Có nghĩa rằng đó chỉ là những huyền thoại chính phủ Bush đã dùng để phục vụ cho các mục đích chính trị vị lợi, và phần nào cũng để trừng phạt Saddam Hussein về một tội tày đình; đó là dám cả gan định bán dầu hoả Iraq để lấy đồng EURO, thay vì lấy đồng dollars như định lệ quốc tế sẳn có. Vào năm 2001, Saddam Hussein đã ra lệnh chuyển 10 tỉ dollars quỷ “oil for food” ở Liên Hiệp Quốc qua đồng EURO. Đó chính là bản án tử hình mà Saddam Hussein tự chuốc lấy khi dám thách đố quyền uy bá chủ thế giới của đồng dollars!
Điểm khác nữa là sau khi dự trữ được nhiều dollars, các nước bèn dùng lượng dollars đó để mua công khố phiếu (treasury bills) của chính phủ Mỹ, chứng khoán (stocks) của các công ty, hay đầu tư trở lại vào lãnh vực địa ốc ở Mỹ. Đây chính là hình thức các nước tài trợ cho nền kinh tế Mỹ. Khi thiếu hụt ngân sách, chính phủ Mỹ thường phát hành công khố phiếu để bán lấy tiền bù cho sự khiếm hụt của mình. Trung Quốc, chẳng hạn, là nước mua rất nhiều công khố phiếu của Mỹ, vô tình đã trở thành kẻ tài trợ cho sự khiếm hụt ngân sách của Mỹ!
Những điều vừa trình bày trên đây tuy đơn sơ và vắn tắt, nhưng cũng phần nào giúp hình dung được hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế Mỹ của tình trạng một lúc nào đó nhiều, hoặc tất cả, các nước sản xuất dầu hoả đồng loạt không bán dầu lấy dollars mà lại lấy một loại tiền tệ khác, như đồng Euro chẳng hạn. Chính viễn ảnh nghiêm trọng đó giúp giải thích cơn thịnh nộ của Mỹ đối với việc Saddam Hussein bán dầu lấy Euro. Nó cũng giúp hiểu rõ hơn quan hệ ngoại giao trở nên tồi tệ giữa Mỹ của TT Bush và Venezuela của Chavez Hugo trong những năm trước đây. Lý do là vì Venezuela là quốc gia Nam Mỹ có sản lượng dầu hoả lớn, trữ lượng gần 100 tỉ thùng, đã trải qua nhiều thập niên bán dầu vào thị trường Mỹ, có lúc lên đến 1.4 triệu thùng dầu thô/ ngày. Những năm sau này, Chavez Hugo đã thỏa thuận đem dầu hoả ra trao đổi (bartering) với hơn 10 quốc gia Nam Mỹ khác, không cần bán dầu đổi lấy dollars. Chẳng hạn như Chavez thỏa thuận trao dầu cho Cuba để đổi lấy việc Cuba cung cấp chuyên viên y tế cho Venezuela. Trao đổi dầu lấy sản phẩm các nước khác trực tiếp như vậy tức là bỏ qua vai trò trung gian của tiền tệ, của dollars; nghĩa là góp phần làm giảm mức cầu, hay đúng hơn, làm suy yếu vị thế của dollars. Ngoài ra, Chavez cũng nổ lực mở rộng thị trường dầu qua Trung Quốc để giảm sự lệ thuộc vào thị trường Mỹ. Những việc làm đó của Chavez rỏ ràng là một thách thức đối với vị thế bá chủ của Mỹ, và người ta không ngạc nhiên khi, trong những năm gần đây, giới truyền thông Mỹ đã không ngớt xây dựng hình ảnh xấu về Chavez và hệ thống chính trị của Venezuela, cũng như tin tức về các âm mưu đảo chánh để lật đổ Chavez.
Trở lại trường hợp Saddam Hussein, Iraq là nước sản xuất và có trữ lượng dầu hỏa lớn thứ nhì thế giới. Dầu hỏa của Iraq lại dễ khai thác, giá thành hạ. Và Iraq là một thành viên quan trọng của OPEC (Tổ chức các quốc gia sản xuất dầu). Việc Iraq của Saddam Hussein đổi qua bán dầu lấy Euro, thay vì dollars, rõ ràng là một đe doạ nghiêm trọng đối với vị trí thống trị của đồng dollars trên thị trường thế giới, gây đảo lộn mối tương quan dollars-dầu hỏa mà giới tài chánh-dầu hỏa Mỹ đã mất nhiều công sức tạo dựng để phục vụ cho nền kinh tế đứng đầu thế giới. Chính phủ của TT Bush không thể tha thứ cho một việc làm như vậy, nhất là khi Iraq-sau nhiều năm chiến tranh và bị cấm vận-đang trong tình trạng phân hoá xã hội và rất suy yếu về quân sự.
Về chiêu bài giúp xây dựng Dân Chủ cho dân Iraq.Một bằng chứng hiển nhiên khác trong thái độ hàng hai (double standards) của chính giới Mỹ đối với vấn đề dân chủ và nhân quyền là trường hợp Saudi Arabia. Đây là quốc gia Hồi giáo khắc nghiệt, cuồng tín, độc tài và tàn bạo nhất hiện nay trên thế giới. Hai chế độ độc tài chuyên chế được nói đến nhiều nhất hiện nay là Bắc Hàn và Miến Điện. Nhưng so ra mức độ chuyên chế ở Saudi Aribia cũng không kém cạnh chút nào. Không chừng còn tệ hại hơn vì Saudi Arabia là một quốc gia Hồi Giáo thần quyền; nghĩa là dùng giáo luật của hệ phái Wahhabism, một hệ phái Hồi giáo cực đoan, làm luật pháp cho cả vương quốc. Saudi Arabia là quê hương của 15 trong số 19 tên khủng bố tự sát trong vụ 9/11!
Vương quốc Saudi Arabia lấy quốc hiệu theo bộ tộc Saudi, hưng thịnh lên từ khoảng những năm 1930s dưới triều đại của vua Ibn Saud, là người đã có một quan hệ rất thân thiện với TT Franklin Roosevelt. Nguồn tài nguyên duy nhất và cũng nhiều nhất thế giới của vương quốc Saudi Arabia là dầu hoả. Nhưng nguồn lợi dầu hoả đã không được phân chia công bằng giữa 28 triệu người dân trong nước. Khoảng 40% lợi tức dầu hoả lọt vào túi của hơn 6,000 hoàng tử của hoàng tộc Saudi; chỉ 60% lợi tức đó đến tay dân chúng!
Tại Saudi Arabia, hàng ngày người dân phải cầu kinh theo những giờ giấc ấn định, có sự nhắc nhở của cảnh sát tôn giáo (religious police). Sự kỳ thị các tôn giáo khác một cách công khai chính thức là một nét khác của vương quốc này. Tất cả những ai không là tín đồ Hồi Giáo Wahabism thì đều bị xem là kẻ ngoại đạo (infidels), không được nhập tịch và không được vào các vùng thánh địa như Mecca, Medina. Thập tự giá của Ki-tô giáo cũng không được chấp thuận. Ngay cả cờ của tổ chức Hồng Thập Tự (Red Cross) quốc tế cũng không được dương lên và bị thay thế bằng cờ Trăng Lưỡi Liềm Đỏ (Red Crescent). Tinh thần bài xích người Do Thái và Kitô giáo là hết sức mãnh liệt. Một trường hợp nổi bật nhất là ngay cả Tổng Thống Bush (senior), trong dịp lễ Thanksgiving năm 1991 khi đến viếng thăm quân Mỹ, được gởi đến Saudi Arabia để đề phòng sự tấn công vào Vương quốc của Saddam Hussein, đã không được có thánh lễ cử hành trên đất của Vương quốc, mà thánh lễ đó chỉ được tiến hành trên chiến hạm USS Durham neo ngoài khơi thuộc hải phận quốc tế!
Sự đối xử bất bình đẳng đối với phụ nữ là một nét tiêu biểu khác của Saudi Arabia. Phụ nữ không được tự do di lại ở nơi công cộng mà không mang mạng che mặt và không có chồng cùng đi. Khi ra khỏi nhà phụ nữ phải mặc loại váy dài màu đen che kín hai chân. Những quy định nghiêm nhặt như vậy áp dụng cho mọi phụ nữ, kể cả người ngoại quốc. Ngay cả những nữ quân nhân của Mỹ, trong thời gian tạm trú đóng tại một vài vùng giới hạn ở Saudi Arabia, khi ra phố cũng bị buộc phải mang loại váy như vậy, không được để lộ hai chân. Chế độ đa thê được luật pháp chấp thuận. Người vợ không được cấp visa xuất ngoại nếu trên đơn xin không có chữ ký ưng thuận của chồng!
VỀ CUỘC CHIẾN AFGHANISTAN
Mùi dầu hoả cũng đã dây vào cuộc chiến Afghanistan cùng một cách như nó đã có đối với cuộc chiến tranh Iraq. Nhưng mối liên hệ này, một lần nữa, lại bị cố ý che khuất khỏi nhãn quan thông thường.
Lật lại quá khứ, năm 1979 Liên Sô đã đưa quân vào Afghanistan để ứng cứu cho chế độ thân cộng vừa bị lật đổ. Sự can thiệp đó của Liên Xô đã dấy lên một cuộc kháng chiến lớn lao của dân Afghans với sự hậu thuẩn mạnh mẽ nhất của Mỹ, sau nữa là Trung Quốc, Iran, Saudi Arabia qua trung gian của Pakistan. Liên Xô chiếm ưu thế về hoả lực, làm chủ thành thị; còn phe kháng chiến Afghan, gọi là Mujahidin, làm chủ nông thôn và vùng đồi núi. Dần dà về sau, phe kháng chiến nhận được những vũ khí tối tân, kể cả hoả tiển cầm tay chống máy bay Stingers của Mỹ, và sự ủng hộ tài chánh dồi dào từ các nước; đặc biệt là sự tiếp tay của CIA và ISI (Inter-Services Intelligence, của Pakistan) trong lãnh vực tình báo và huấn luyện.Liên Xô đã đưa đến, lúc cao điểm, hơn 100,000 quân vào. Cuộc chiến kéo dài đến gần 10 năm, Mỹ và các nước vừa nêu đã thành công trong việc khiến cho Liên Xô sa lầy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế. Cuối cùng, năm 1988, sau gần 10 năm can thiệp, Gorbachov đã phải rút quân Liên Xô về, sau khi chết mất hơn 15,000 quân và 37,000 binh sĩ khác bị thương.
Cuộc chiến khiến Afghanistan bị tàn phá nặng nề, hơn 1 triệu người chết, 5 triệu người lưu tán, hàng triệu bom mìn chưa nổ rãi rác khắp lãnh thổ, cơ sở hạ tầng hoàn toàn bị huỷ hoại. Sau khi quân Liên Xô rút về, nội bộ phe kháng chiến lại chém giết nhau. Tình hình hổn loạn đó kéo dài đưa đến sự ra đời của Taliban, một lực lượng mạnh kiểm soát phần lớn đất đai, chọi nhau với Liên Minh Bắc Phương (Northern Alliance) của những tay quân phiệt.
Điều đáng chú ý là từ sau khi Liên Xô rút quân về cho đến 9/11/2001, Mỹ- cường quốc chủ chốt hậu thuẩn cho đội quân Mujahidin trước đây, trong đó cả trùm khủng bố Al-Qaeda hiện nay là Bin Laden- hoàn toàn bỏ mặc Afghanistan. Mỹ đã không lãnh đạo một nổ lực quốc tế nào giúp tái lập trật tự và hàn gắn vết thương chiến tranh cho Aghans, dân tộc đã tiếp nhận sự giúp đỡ vũ khí của Mỹ để đánh bại đối thủ lớn nhất của Mỹ trong thế kỷ 20, đã góp phần làm kinh tế của Liên Xô kiệt quệ, dẩn đến sự sụp đổ của Liên Xô trong chỉ vài năm sau đó. Khi đã thành công trong việc làm suy kiệt Liên Xô, Mỹ đã bỏ mặc người Afghans và đất nước khốn khổ hổn loạn của họ mà không hề có một sự viện trợ nào dù nhỏ. Điều này đã tạo ra một khỏang trống quyền lực, làm môi trường thuận lợi cho nội chiến và sự ra đời của phong trào cực đoan Taliban.
Cũng không khác gì sau 1975, Mỹ đã bỏ mặc Việt Nam Cộng Hoà, quay lưng lại với hàng triệu quân cán chính, thương phế binh, cô nhi quả phụ sống khốn cùng bên lề xã hội của một nước Việt Nam thống nhất dưới chế độ CS. Từ 1975 cho đến nay, đặc biệt nhất là sau khi mà Mỹ đã lập quan hệ chính thức với VNCS, Mỹ chỉ lo toan cho chương trình MIA để tìm người mất tích của họ, chỉ dùng nhân quyền như một lá bài mặc cả với VC trong vấn đề mậu dịch, và nhiều lắm là đón nhận những cựu tù cải tạo để đáp ứng chính sách di dân truyền thống, chứ chưa bao giờ các chính phủ Mỹ đặt vấn đề trợ giúp nhân đạo cho hàng trăm ngàn thương phế binh, cô nhi quả phụ tử sĩ của VNCH trước đây, những người đã một thời chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ trong trận tuyến chống lại Cộng Sản quốc tế, và đem vấn đề đó ra để áp lực với phía VNCS nhằm buộc chính phủ CS phải có chính sách kinh tế-xã hội đúng đắn và nhân đạo đối với tình trạng thương tật và cô qủa của người chiến bại, chấm dứt sự kỳ thị đối với họ. Mỹ cũng ngay cả không để tâm đến những hoạt động cứu trợ TPB/VNCH của người Việt tị nạn tại Mỹ!
Thái độ bỏ mặc Afghanistan của Mỹ, theo kiểu “được chim quên ná, được cá quên nơm”, có thể đã kéo dài mải như vậy. Nhưng rồi, đùng một cái Liên Xô đổ, mở ra cơ hội chiến lược mới ở Trung Á, và vùng biển Caspean- những nước mới ra khỏi gông xiềng Sô viết-khiến chính giới Mỹ, những người lâu nay vẫn đại diện không chính thức cho quyền lợi của các công ty dầu hỏa, chú ý và đổi thay thái độ. Dư luận Tây Phương bắt đầu nói nhiều về các mỏ dầu và hơi đốt của Trung Á. Những ước tính sơ khởi về tiềm năng dầu-hơi đốt của những quốc gia bao quanh Caspean rất lạc quan, có người đã kết luận rằng, dầu hỏa ở đây, với trữ lượng lên đến gần 200 tỉ thùng, sẽ rất quan trọng, đứng hàng thứ hai sau vùng Trung Đông. Mặt khác, cũng có người muốn tìm cách để chuyển vận dầu và hơi đốt của vùng này ra bên ngòai mà không phải đi qua lãnh thổ của Iran hay của Nga. Từ đó đã ra đời những dự án đường ống dẩn dầu từ biển Caspean, Kazakhstan, Turkmenistan và từ vài nước Trung Á khác, băng qua Afghanistan, Pakistan rồi ra biển. Đường ống đó sẽ giúp giá thành dầu hạ xuống và hoàn toàn độc lập với dầu ở vùng Vịnh Trung Đông. Đi tiên phong trong đề án này là Unocal, một công ty dầu có bản doanh ở California, với đường ống dự trù dài hơn 1,000 miles, tốn phí khoảng 2.5 tỉ dollars, sẽ chuyển vận 1,000,000 thùng/ ngày đến vùng biển Pakistan, thuộc Arabian Sea, thông ra Ấn Độ Dương.
Michael Klare, một học giả tiếng tăm, tác giả của quyển Resource Wars tóm lược quan điểm của Ông, tiêu biểu cho nhận định của chính giới Mỹ, đối với mỏ dầu Trung Á: "I think in this case this is a national security consideration that's driving all of this. The United States has to get that oil from that region [Central Asia] and will make a deal with whatever governments are there in place that are willing to work with us, like the governments in Azerbaijan and Kazakhstan and Turkmenistan that are far from ideal with respect to human rights and democratic procedure. And I think that's a reflection of the view that I write about in my book -- we view oil as a security consideration and we have to protect it by any means necessary, regardless of other considerations, other values."
(Tạm dịch: Tôi nghĩ rằng trong vấn đề này động lực chi phối tất cả chính là sự cân nhắc về an ninh quốc gia. Mỹ phải lấy được dầu từ vùng Trung Á đó và phải dàn xếp được với bất kỳ chính phủ nào trong vùng muốn hợp tác với chúng ta, như chính phủ Azerbaijan, Kazakhstan hoặc Turkmenistan mà quá trình dân chủ và nhân quyền còn khiếm khuyết. Và tôi nghĩ rằng điều đó phản ảnh quan điểm tôi đã viết ra trong sách - rằng chúng ta xem dầu hoả là vấn đề an ninh và phải bảo vệ nó bằng mọi phương cách cần thiết bất chấp những bận tâm hoặc các giá trị lý tưởng nào khác.)
Câu nói trên của Klare phần nào giúp soi sáng cho việc đi tìm nguyên nhân đơn giản, nhưng thầm kín, của cuộc chiến tranh Afghanistan hiện nay. Tuy trên bề mặt, bộ máy tuyên truyền khổng lồ đã tìm cách diễn giải khác đi bằng cách vin vào vụ 9/11 và cho rằng mục đích của cuộc chiến là đánh đổ Taliban, chế độ đã dung chứa Bin Laden, kẻ chủ mưu 9/11, và là đồng minh của Al-Qaeda. Ngay chính TT Obama cũng công khai tuyên bố như vậy. Nhưng gần 10 năm đã trôi qua, và càng ngày càng ít nghe nhắc tới mục tiêu ban đầu là truy bắt Bin Laden. Mới đây Leone Panetta, Giám Đốc CIA, đã cho biết rằng số lượng thành viên Al-Qaeda ở Afghanistan đã bị tiêu diệt rất nhiều, con số hiện thời chỉ còn khoảng từ 50 cho đến 100. Chỉ với chừng ấy thành viên Al-Qaeda, nhưng sao lại phải huy động cả hàng mấy chục ngàn quân sĩ của Mỹ và Đồng minh, tiêu tốn hàng trăm tỉ dollars/ năm để đối phó trong lúc ngay cả Quốc Hội Mỹ lại không đủ tiền để trợ cấp cho hàng triệu người thất nghiệp ? Còn Taliban có là mối đe doạ tức thời đối với an ninh của Mỹ? Chắc chắn là không, vì mục đích cao nhất của họ chỉ là nắm quyền cai trị Afghanistan, đất nước của họ, và đánh đuổi quân ngoại quốc ra khỏi lãnh thổ. Taliban cũng không đủ khả năng quân sự và kỹ thuật để có thể đe doạ nền an ninh của Mỹ. Về mặt này, Taliban còn thua rất xa Bắc Hàn. Vậy lý do tiềm ẩn của cuộc chiến Afghanistan là điều gì khác hơn với những gì đã được công khai nêu ra; và lý do đó đã được Michael Klare trình bày ở trên.
Mặt khác những diễn tiến mới nhất ở Afghanistan cho thấy rằng về mặt quân sự Mỹ chưa đạt được ưu thế, tuy đã tăng thêm hơn 30,000 quân. Chiến thuật surge áp dụng thành công phần nào ở Iraq, nhưng lại không mấy thành công ở Afghanistan. Điểm căn bản trong chiến thuật surge ở Iraq là thay đổi chính sách, không loại trừ mà trái lại trả lại phần nào quyền lực cho hệ phái Sunni, chấp nhận cho họ có vai trò trở lại trong chính trường Iraq. Trước đó, Mỹ đã phá nát toàn bộ hệ thống quyền lực của phái Sunni (phái của Saddam Hussein), nâng đỡ và đưa hệ phái Shìi lên. Tình hình Iraq đã lắng dịu hơn chính là do đa số phái Sunni bằng lòng hợp tác. Nhưng Afghanistan không phải là Iraq và Taliban không có sự phân hoá nội bộ thành hai phe như người Iraqi. Chính vì vậy mà chiến thuật surge đã không thành công. Trước đây chính phủ của Obama cứ tưởng rằng Surge sẽ thành công như ở Iraq nên vội vàng ấn định deadline tháng 7/2011. Nhưng nay thì Obama đành phải “cà lăm ", bảo rằng tháng 7/2011 chỉ là mốc thời gian chuyển tiếp (transitional time/ period). Nhưng Taliban lại có được một ưu điểm so với Mỹ; đó là sự kiên nhẩn. Tắt lại, Mỹ không mong và cũng không có khả năng đạt một chiến thắng quân sự hoàn toàn ở Afghanistan. Cuối cùng chiến cuộc có thể kết thúc bằng một giải pháp chính trị mà mục tiêu không phải là loại trừ vĩnh viễn Taliban, nhưng là sự cộng tác của một Taliban công nhận quyền lợi dầu hoả của Mỹ ở Trung Á.
Tóm lại, chiến tranh Iraq và chiến tranh Afghanistan là hai trường hợp điển hình của mối quan hệ dầu hoả-chính trị trên phạm vi thế giới. Nó nói lên vai trò hết sức quan trọng của nguồn năng lượng phổ biến nhất hiện nay của nền văn minh cơ khí Tây Phương: dầu hỏa. Kể từ ngày dầu hoả được dùng thay cho than đá, và với sự ra đời của động cơ đốt trong (internal combustion engines), dầu hoả đã đóng chức năng như “ máu huyết “ của nền văn minh. Ngay trong phạm vi căn bếp của mỗi gia đình hiện nay, sự hiện diện của dầu hoả và các phó phẩm của nó là bao trùm; không vật dụng nào mà không dính dáng xa gần đến dầu hoả. Ra bên ngoài, dầu hỏa cũng có mặt ở khắp nơi : đường sá, cầu cống, xe cộ, máy bay, nhà máy, dược phẩm, áo quần, phân bón, thuốc trừ sâu v.v…Có thể nói mà không sợ sai rằng nhân loại đang sống trong nền văn minh dầu hoả; thiếu nó, nền văn minh này có cơ ngưng thở. Cứ thử tưởng tượng đến một lúc nào đó toàn bộ trữ lượng dầu hoả trên trái đất này khô cạn, nền văn minh sẽ ra sao?
Hiện nay Mỹ, với dân số chỉ bằng 5% của thế giới, tiêu thụ hơn 25% lượng dầu sản xuất toàn cầu, phần lớn là mua từ Trung Đông. Trong tương lai không xa, khoảng năm 2030, mức tiêu thụ dầu của Trung Quốc, với 1.5 tỉ dân và kinh tế tăng trưởng nhanh, sẽ bắt kịp mức của Mỹ. Hiện nay 58% lượng dầu Trung Quốc tiêu thụ cũng là nhập từ Trung Đông, nơi có trữ lượng lớn nhất thế giới. Các nước đang lên như Brazil, Russia, India cũng đang gia tăng nhu cầu về dầu hỏa của mình. Nhưng trữ lượng dầu hoả rõ ràng là hữu hạn. Có thể hình dung dự trữ dầu thế giới như một miếng bánh, phần chia miếng bánh của người này tăng tất yếu dẩn đến phần chia của người khác bị thu nhỏ. Tình hình như vậy thường đưa mỗi người đến một trong hai lựa chọn: tìm loại bánh khác cho mình, hoặc dùng vũ lực để lấn chiếm phần người bên cạnh. Tương tự như vậy trên bình diện toàn cầu, sẽ đến lúc nhân loại phải hoặc tìm một nguồn năng lượng mới phong phú hơn thay cho dầu hoả, nghĩa là phải làm một cuộc cách mạng lớn lao trong lịch sử để tồn tại hoà bình; hoặc phải đưa nhau vào một cuộc thế chiến thứ ba mà hậu quả sẽ là sự diệt vong. Sự lựa chọn đã rõ ràng và sẽ là phần thưởng lớn cho dân tộc, quốc gia nào gây ra được sự đột phá tiên phong trên con đường đi tìm nguồn năng lượng mới. Mong sao giới lãnh đạo trẻ Việt Nam sau này sẽ đặt phần thưởng đó thành mục tiêu chiến lược hàng đầu nhằm sớm đưa Đất Nước ra khỏi lối mòn dầu hoả.
Sunnyvale, ngày 4/7/2010
NT5 TRƯƠNG ĐÌNH TRUNG tổng hợp
Tất cả chúng ta ( ngoài T/B LOUISIANA ) đều thấy sự việc trầm trọng. Nhưng trầm trọng như thế nào,chỉ có những ngườì tại chỗ mới cảm nhận một cách chính xác,vì chính họ bị ảnh hưởng trực tiếp, nhất là người VIỆT chúng ta tại Louisiana làm nghề đánh cá.
Qua sự sưu tầm, tổng hợp và nhận xét trong bài DẦU TRÀN dưới đây.NT5 TRƯƠNG ĐÌNH TRUNG đã giúp chúng ta biết một cách rõ hơn những gì mà chúng ta đã biết một cách khái quát qua phương tiện truyền thông bấy lâu nay.
Cám ơn Niên Đệ NT5 TRƯƠNG ĐÌNH TRUNG.
Xin giới thiệu cùng các bạn đồng môn và thân hữu.
NT3 NGUYỄN ÍCH HẢI.
TẢN MẠN QUANH VỤ DẦU TRÀN Ở VỊNH MEXICO
Ngày 20/4/2010, tàu khoan dầu Deepwater Horizon, khi đang khoan trên giếng dầu Macondo thuộc khu vực Mississipi Canyon Block 252, nằm khoảng 45 miles về phiá Nam của duyên hải Louisiana, thì phát nổ và cháy. Độ sâu ở vùng này là khoảng 5000 bộ Anh (chừng 1 mile). Dàn khoan này đang khoan tới độ sâu chừng hơn 3 miles (18,000 bộ Anh) tính từ đáy đại dương và đang vào vùng có dầu. Dàn khoan đang đi vào bước cuối trong giai đoạn thăm dò, các chuyên viên đang chuẩn bị để đậy giếng khoan bằng một casing, chờ đợi kết quả xét nghiệm mẫu dầu để quyết định kế hoạch cho bước khai thác sản xuất kế tiếp.
Ước tính sơ khởi giếng khoan này có trữ lượng khoảng 100 triệu thùng dầu. Đó tuy không là một số lượng lớn lắm so với những giếng khoan khác trong vùng Vịnh Mexico, nhưng dù sao cũng là một sự thành công và bộ phận Thăm Dò của công ty BP đang chuẩn bị ra thông báo chính thức về sự thành công của giếng khoan. Một năm trước đó tàu khoan Deepwater Horizon, thuộc về công ty dịch vụ dầu Transocean, đã khoan thăm dò thành công cho hảng BP, một giếng khoan khác ở độ sâu 35,000 bộ Anh, cũng trong vùng Vịnh Mexico, với trữ lượng đến 3 tỉ thùng dầu! Điều đó cho thấy tàu khoan Deepwater Horizon là một tàu khoan lớn có thành tích với một đội ngũ nhân viên lành nghề. Giá thuê tàu khoan Deepwater Horizon rất đắt, BP đã phải trả hơn 500,000 dollars tiền thuê mỗi ngày cho công ty Transocean.
Tàu Deepwater Horizon dài 396 bộ (khoảng 130 mét), rộng 256 bộ (khoảng 85 mét), cao khỏi mặt nước khoảng 80 bộ (chừng 25 mét). Tổng số nhân viên là 135 người. Vụ nổ phát ra ngọn lữa từ sàn tàu phụt lên cao nhiều trăm mét đã khiến 11 chết và 9 mất tích.
Hiện vẫn chưa có kết luận chính thức về nguyên nhân của vụ nổ. Nhưng thông thường, các vụ nổ dàn khoan dầu là do hệ thống ngăn chận hơi đốt và dầu dội lên từ đáy giếng đã không được lắp đặt đúng theo yêu cầu an toàn kỹ thuật khiến áp suất rất lớn ở đáy giếng đã đẩy hơi đốt và dầu ngược lên dàn khoan, gây ra nổ và hoả hoạn. Bộ phận quan trọng nhất là Blowout Preventer (BOP) nằm ngay miệng giếng (wellhead), thường do các robots, được điều khiển từ xa, đóng lại khi phát hiện thấy có triệu chứng hơi đốt và dầu tràn ngược lên một cách bất thường. Mặt khác, công đoạn lắp đặt các ống khoan (casings) trong và các ống khoan ngoài sao cho hoàn toàn đồng tâm với mũi khoan, và việc đổ cement quanh các ống khoan đó cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc ngăn chận hơi đốt-dầu tràn ngược. Thông thường để bảo đảm cho công đoạn này, các ống khoan được gia cố xung quanh bằng các centralizers. Công dụng của các centralizers là duy trì sự đồng tâm của các ống khoan, giúp hổn hợp Mud cũng như cement được phân bố và thay thế đồng đều, không tạo ra kẻ hở. Theo điều tra của Uỷ Ban Năng lượng Hạ Viện thì mũi khoan Macondo chỉ có 6 thay vì 21 centralizers như khuyến cáo kỹ thuật của công ty dịch vụ Halliburton.
36 giờ sau vụ nổ, tàu khoan Deepwater Horizon chìm xuống đáy sâu 5000 bộ (khoảng 1 mile = 1.6 km), cách giếng Macondo mà nó khoan, khoảng 300 mét. Tàu chìm kéo phần dàn ống, danh từ chuyên môn Anh ngữ là Marine Riser, kể từ miệng giếng dầu lên đến tàu ngã đổ theo và nứt ra ở ba điểm khác nhau, dầu đã từ đó những chỗ đó phun ra. Bộ phận quan trọng để bịt giếng dầu trong trường hợp khẩn cấp là Blow Out Preventer (BOP) của giếng khoan, trong trường hợp này, không hiểu vì lý do gì đã không hoạt động được theo sự dự liệu của kế hoạch an toàn.
Tàu khoan Deep Horizon là của công ty Transocean .Transocean được công ty BP thuê khoan theo thiết kế của BP. Ngoài ra, còn có công ty Anadarko Petroleum với phần hùn 25%, và công ty Mitsui Oil Exploration với 10% hùn vốn. Trên tàu khoan còn có một số nhân viên của công ty Halliburton (do Phó TT Dick Cheney làm CEO trước đây) phụ trách về kỹ thuật xi-măng cho mũi khoan. Điểm quan trọng khác về liên đới trách nhiệm là cơ quan Minerals Management Services (MMS) của Chính phủ Liên Bang chịu trách nhiệm giám sát các hoạt động của các công ty dầu, kiểm tra điều kiện an toàn của các giàn hoặc tàu khoan theo khuyến cáo của OSHA (Occupational Safety and Health Administration).
BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ:
Có hai khía cạnh trong việc đối phó với việc dầu tràn: dầu loang trên mặt biển và chận đứng dầu tràn lên từ miệng giếng.
Đối với dầu loang trên mặt biển, nhiều phương cách khác nhau được dùng phối hợp. Trước hết là tìm cách ngăn bớt không cho dầu lan nhanh vào gần bờ biển. Kế đến là dùng hoá chất (dispersants) để làm tan loãng dầu. Tiếp nữa là hút dầu vào các tàu có bồn chứa (skimming). Một biện pháp khác là dùng lữa đốt các mảng dầu lớn. Ở những nơi dầu đã lan vào bờ, đã hình thành các oil tars lẫn với cát, người ta phải thu thập các tars dầu đó đựng vào các túi plastic và đem đi.
Việc hút dầu loang trên mặt vào các tanker ships gặp trở ngại là việc vận chuyển dầu bằng những tankers lớn đã từ lâu không thuộc lãnh vực kinh doanh được người Mỹ chú ý, vì vậy hiện đa số những tàu tankers lớn lại thuộc sở hữu của các quốc gia khác. Nhưng theo luật hàng hải của Mỹ thì các tàu tankers ngoại quốc lại không được tự do ra vào vùng biển của Mỹ; họ chỉ được đi theo những hải trình chấp thuận trước. Đây chính là lý do vì sao, tuy có nhiều quốc gia sẳn lòng đưa các tàu tankers lớn vào giúp, nổ lực quốc tế của việc hút vớt dầu vẫn chưa tiến hành nhanh như mong đợi.
Khó khăn nhất là việc chận đứng dầu tiếp tục tràn lên từ giếng dầu. Bộ phận quan trọng nhất để chặn tất cả hơi đốt và dầu tràn lên từ miệng giếng (wellhead) là BOP đã, vì một lý do nào đó, không vận hành được nên dầu vẫn tiếp tục trào lên. Khi vụ nổ xảy ra, tàu khoan Horizon chìm, kéo dàn ống (marine riser) nối từ miệng giếng lên đến tàu khoan dài cả một mile ngã đổ theo, gây ra 3 chỗ nứt khác nhau trên dàn ống đó gần với miệng giếng. Dầu đã từ 3 chỗ nứt đó liên tiếp phun ra. Lúc đầu người ta đã dùng robots để tìm cách bịt những chỗ nứt đó lại, nhưng không thành. Người ta cũng cố gắng thiết kế một vòm chụp lớn, do robots đưa xuống úp lên trên miệng giếng để từ đó chuyền dầu phun ra lên các tàu trên mặt biển. Nhưng kết quả không giảm được lượng dầu đáng kể tiếp tục tràn ra. Phương cách khác là đào những giếng khoan phụ (relief well) gần đó để giảm áp suất của giếng chính, khiến lượng dầu thôi tràn lên. Nhưng việc đào giếng khoan phụ giảm áp suất đòi hỏi nhiều thời gian; mất cả vài tháng mới xong. Trong lúc đó thì lượng dầu tràn ra hàng ngày có thể lên đến 60,000 thùng!
VẮN TẮT VỀ HẢNG BP.
BP bắt nguồn từ công ty Anglo-Persian Oil Company do William Knox D’Acry, một người Úc gốc Anh, thành lập năm 1909 để khai thác dầu ở Iran sau khi D’Acry nhận được hợp đồng 60 năm đặc nhượng (Oil Concession) với đế quốc Persian (tên gọi nước Iran trước năm 1935). Từ Đệ I Thế chiến trở về sau, do sự vận động mạnh mẽ của Winston Churchill, người đã nhìn thấy trước viễn ảnh vai trò chiến lược của dầu hỏa, chính phủ Anh quốc bỏ nhiều vốn vào Anglo-Persian Oil Company và chiếm đa số cổ phần ở đó, chừng 53%.
Từ đó trở đi công ty trở nên độc quyền dầu hoả ở Iran và giàu lên rất nhanh. Đến năm 1935, nước Persian đổi tên chính thức là Iran, công ty cũng đổi tên từ Anglo-Persian thành Anglo-Iran Oil Company (AIOC), là công ty dầu hoả lớn nhất thế giới, khai thác và lọc dầu ngay tại Iran, thu dụng trên 200,000 lao động người địa phương. Công ty đã thu được lợi nhuận khổng lồ, trong khi chỉ trả cho chính phủ Iran những món tiền rất khiêm tốn .Chẳng hạn năm 1948, công ty được nhượng quyền trên một diện tích hơn 100,000 dặm vuông, khai thác được hơn 23 triệu tấn dầu, thu lời đến 320,000,000 dollars, nhưng chỉ trả cho Iran 36,000,000 dollars ! Ngoài ra, Công ty lại đối xử rất tệ với công nhân bản xứ, trả thù lao rất thấp so với người Anh, và để họ sống trong những khu phố đầy rác rưỡi, ẩm thấp, không hề được hưởng một quy chế an sinh tối thiểu nào cả.
Đến năm 1954, ảnh hưởng của Công ty ở Iran suy giảm, Công ty đổi lại tên thành British Petroleum (BP) Company. Do sự quốc hữu hoá dầu hoả của các quốc gia Á rập, sản lượng dầu của Công ty giảm dần; chẳng hạn năm 1975 sản lượng của Công ty ở Trung Đông là 140 triệu tấn, nhưng đến năm 1983 chỉ còn chừng ½ triệu tấn. Từ đó, chính phủ Anh bán lại cổ phần của mình và thôi không còn giữ vai trò chính trong Công ty nữa. BP bắt đầu thâm nhập vào thị trường Bắc Mỹ, mua lại các công ty Standard Oil of Ohio, ARCO, Amoco, và khởi sự khai thác dầu ở Alaska, Texas và Vịnh Mexico.
Trong những năm gần đây hồ sơ về sản xuất an toàn của BP rất tệ. Năm 2005 một trạm lọc dầu của BP ở Texas cháy, giết chết 15 nhân công. Năm 2006 làm tràn hơn 250,000 gallons dầu tại một ống dẩn ở Alaska khiến phải đóng cửa nhà máy ở đó. Kết quả điều tra những vụ đó cho thấy nguyên nhân là do BP cố tình bỏ băng một số công đoạn kỹ thuật để tiết kiệm hoặc thời gian, hoặc chi phí sản xuất cho Công ty.Ngoài ra, những điều tra của ProPublica- một tổ chức bất vụ lợi chuyên đưa ra những điều tra báo chí phục vụ công ích- thì BP còn vấp phải nhiều sai phạm khác về an toàn sản xuất và bảo vệ môi sinh. Theo ProPublica thì đã có nhiều điều tra và cảnh báo của các tổ chức quốc tế về việc nhân viên quản trị của BP đã làm dối trong các quy trình an toàn, sử dụng dụng cụ quá cũ ảnh hưởng đến mức độ chính xác của việc đo đạc các chỉ số an toàn, hoặc ngăn cấm hay đe doạ công nhân không được lên tiếng về những vấn đề an tòan của Công ty, hay làm ngơ đối với các yêu cầu an toàn của các cơ quan chính phủ, cản trở hay làm nản lòng các viên chức của cơ quan thực hiện việc điều tra, v.v…
Năm 1999, BP đã bị kết án (felony conviction) ở Alaska vì đã xả phế liệu một cách phi pháp (illegal dumping), gây tổn hại nặng nề cho môi trường và đời sống. Vụ án đó khơi mào một loạt các điều tra về những vi phạm của BP đối với môi trường trong suốt thời gian dài BP khai thác dầu ở Alaska từ thập niên 1960 trở đi. Loạt điều tra đó phơi bày nhiều vi phạm nghiêm trọng của BP đối với việc bảo vệ môi trường. Để được tiếp tục khai thác, BP đã phải chấp nhận ký cam kết về một kế hoạch 5 năm tự đặt dưới sự theo dõi của US EPA (Cơ quan Bảo vệ Môi trường của Mỹ).
Hoặc như năm 2002, giới chức ở California đã khám phá ra BP nguỵ tạo các báo cáo an toàn và có đến 80% các phương tiện tồn chứa dầu của Công ty ở vùng lọc dầu Los Angeles là không đạt tiêu chuẩn về bảo trì chống rò rỉ. Để khám xét các bồn chứa dầu của BP, các điều tra viên đã phải xin trát toà (warrants).Vì sự rò rỉ đó, cuối cùng BP đã phải dàn xếp ngoài toà bồi thường cho South Coast Air Quality Management Distric 100 triệu dollars!
Vụ nổ tại trạm lọc dầu Texas năm 2005, giết chết 15 công nhân nói đến ở đoạn trước, theo các kết quả điều tra, gây ra là do vi phạm quy định an toàn, và không tuân thủ quy trình sản xuất. Sau vụ đó, BP có hứa sẽ cải thiện quá trình công nghệ ở trạm lọc dầu này cho an toàn hơn, nhưng về sau BP đã không thực hiện lời hứa đó và bị OSHA (Occupational Safety and Health Administration) phạt 87 triệu dollars.
Riêng trong vụ nổ dầu Deepwater Horizon này, theo Uỷ Ban Năng Lượng và Thương Mãi Hạ Viện thì công ty BP, vì muốn tiết kiệm chi phí và rút ngắn thời gian, đã tiến hành khoan mỏ dầu Macondo bất chấp những đòi hỏi kỹ thuật thông thường và những bước cần thiết về an toàn. Trong thư gởi cho ông Tony Hayward, CEO của BP, Ủy ban nêu ra 5 thiếu sót trong quyết định của BP: (1)Dùng thiết kế với ít rào cản (barriers) để chận dòng hơi đốt từ dưới lên. (2) Dùng quá ít centralizers- 6 thay vì 21 theo tiêu chuẩn kỹ thuật- dùng trong việc bảo đảm độ đồng tâm của các ống khoan (casing) có đường kính khác nhau. (3) Không tiến hành thử nghiệm hiệu năng của quá trình đổ cement bảo vệ ống khoan.(4) Không thử nghiệm trước khả năng chu lưu tốt của hổn hợp bùn khoan có chứa hơi đốt ra khỏi giếng khoan.(5) Đã không bịt chặt được miệng giếng (wellhead) để cản áp suất dội lên từ dưới giếng. Do muốn giành lại thời gian đã bị chậm trễ nhiều so với kế hoạch dự liệu trước đó, BP đã vấp phải 5 quyết định sai sót vừa nêu.
Tuy đã gởi thư trước cho Tony Hayward với những vấn đề nêu ra như trên, nhưng tại cuộc điều trần ngày 15/6/2010, Ủy Ban Năng lượng đã không nhận được một sự trả lời nào thoả đáng từ ông Tony Hayward, CEO của BP. Ông Hayward nhất mực phủ nhận mọi quyết định sai sót do Uỷ Ban nêu ra cho công ty BP, lấy cớ rằng việc điều tra nguyên nhân của vụ cháy-nổ vẫn còn đang được tiến hành và chưa có kết luận cuối cùng. Các Dân Biểu của cả hai đảng Cộng hoà và Dân Chủ, ngoại trừ Dân Biểu Cộng Hoà Joe Barton, đều không hài lòng với sự trả lời của ông Hayward, cho rằng ông này đã cố tình “ ngậm miệng” (stonewalling) không chịu cung cấp đầy đủ thông tin; người ta nghi ngờ rằng thái độ của Hayward là để dự phòng các vụ kiện dân sự sẽ xảy ra cũng như việc điều tra những vi phạm hình sự có thể có đối với BP liên quan đến vụ nổ.
Trước cuộc điều trần nói trên một ngày, do áp lực mạnh mẽ của chính phủ Obama, BP đã đồng ý bỏ ra 20 tỉ dollars vào một escrow fund, nghĩa là quỹ do một trung gian (third party) quản lý, chia ra 5 tỉ mỗi năm, nhằm chi trả cho những khiếu nại thiệt hại của cư dân trong vùng Vịnh Mexico, gây ra do hậu quả của vụ nổ Deepwater Horizon. Đó là một số tiền rất lớn so với mức trách nhiệm được quy định trước đây là 75 triệu dollars. Tuy vậy, một số chính khách đảng Cộng Hoà, vì một lý do chính trị nào đó, lại phản đối việc làm đó của TT Obama. Dân biểu Joe Barton, chẳng hạn, tại cuộc điều trần trước Uỷ Ban Năng Lượng, đã xin lỗi BP về việc phải bỏ ra 20 tỉ dollars đó và Ông cho rằng TT Obama đã tống tiền (shakedown)BP! Một số các chính khách Cộng Hoà khác cũng cho rằng, bằng việc áp lực BP phải bỏ tiền ra như vậy, chính phủ Liên Bang đã can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của các công ty tư nhân! Thái độ này của các chính khách CH đã gây không ít bất bình từ dân chúng vùng Vịnh Mexico.
HẬU QUẢ CỦA VỤ NỔ:
Vụ dầu tràn từ tàu khoan Deepwater Horizon đang trực tiếp gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho đời sống của dân các vùng liên hệ thuộc các bang Louisiana, Mississipi và Alabama.
Trước hết là đối với Ngư nghiệp. Kỹ nghệ hải sản của bang Louisiana trị giá 2.4 tỉ dollars, cung cấp đến 40% hải sản cho cả nước, tuyển dụng khoảng 27,000 nhân công. Vụ tràn dầu đã khiến đến 25% diện tích biển của Vịnh, nghĩa là ¼, do vấn đề an toàn đã bị đặt vào vùng cấm các hoạt động ngư nghiệp; và sự giới hạn này ảnh hưởng trực tiếp đến đới sống của hàng ngàn ngư dân, và gián tiếp đến các dịch vụ hải sản khác của khu vực.
Vụ tràn dầu cũng ảnh hưởng đến đời sống động vật trong vùng biển. Cho đến nay đã tìm thấy hơn 500 chim biển, gần 250 rùa, và khoảng 30 động vật hữu nhủ khác, gồm cả cá heo, bị chết do dầu. Đây là những dấu hiệu rất đáng ngại về hậu quả nguy hại đối với môi trường hải dương của Vịnh.
Nổi lo ngại đối với môi trường hải dương còn lớn hơn nữa khi nhiều Plumes dầu, một dạng hổn hợp loãng của dầu thô và khí mê-tan không hoà tan, không nổi trên mặt nước, nhưng lơ lững ở trong nước ở độ sâu hàng ngàn bộ Anh, hợp thành từng khối dài hàng chục miles, rộng đến 5 miles và dày từ 300 đến 3000 bộ Anh, đã được các nhà khoa học trường Đại học Florida phát hiện gần nơi dầu tràn. Người ta còn gọi những Plumes này là những sông dầu ngầm (undersea rivers of oil). Tác hại trước hết của Plumes là làm suy giảm tỉ lệ khí Oxy hoà tan trong nước biển (Oxygen depletion/hypoxia), ước tính xuống còn chừng 30%. Mức độ khí oxy hoà tan thấp như vậy sẽ rất độc hại cho những loài sống sâu dưới nước như rùa, cá voi, cá mập, cá tuna, mực, bạch tuộc, và rất nhiều các loại rong tảo hữu ích khác của đời sống hải dương. Tất nhiên sự nguy hại đó sẽ có tác động dây chuyền, ảnh hưởng cả đến con người, khi nhìn từ gốc độ môi sinh học như một tổng thể.
Ngay cả ngành du lịch của các bang trong vùng Vịnh cũng sẽ bị ảnh hưởng. Nặng nhất là bang Florida, nơi mà hàng năm ngành du lịch cung cấp đến gần 60 tỉ doanh thu, và công việc làm cho hơn 1 triệu người. Tin tức về dầu tràn từ Vịnh Mexico xuống làm ô nhiểm các bãi biển chắc chắn sẽ làm giảm số lượng du khách đến Florida trong mùa hè này.
DẦU HỎA VÀ CHÍNH TRỊ
Dầu hoả và chính trị quốc tế là một đề tài rộng lớn,vượt rất xa khuôn khổ của một bài viết ngắn gọn. Nhân do vụ nổ dầu ở tàu khoan Deepwater Horizon của hảng BP, người viết chỉ xin lược sơ những nét lớn lao của mối quan hệ dầu hỏa-chính trị bắt đầu bằng việc nói đến sức mạnh tài chánh của BP và những dính líu chính trị đầu tiên của công ty đó trên phạm vi quốc tế. Kế đến điểm lại vài biến cố chính trị quốc tế liên quan và sau cùng về hai cuộc chìến tranh hiện xảy ra ít nhiều dính líu đến dầu hoả.
Trước hết xin ghi ở đây vài con số về khả năng tài chánh của BP.
• Trước hết là về tổng trị giá doanh vụ hàng năm:
2009 - $239,272,000,000
2008 - $361,143,000,000
2007 - $284,365,000,000
2006 - $265,906,000,000.
• Kế đến là tổng lợi tức thuần (sau khi đóng thuế):
2009 - $16,578,000,000
2008 - $21,157,000,000
2007 - $20,845,000,000
2006 - $22,315,000,000
Lương của CEO năm 2009, theo như chính lời khai của ông Tony Hayward trước Hạ viện, là 6 triệu dollars, chưa kể bonus!
Để làm rõ thêm ý niệm của những con số nêu trên xin vui lòng so sánh với Tổng Sản Phẩm Nội Địa của VNCS, một quốc gia với 83 triệu dân, năm 2009 là $92,600,000,000. Hoặc như GDP của Thái lan cùng năm là $262,000,000,000.Hay của Philippines là $160,600,000,000.
Từ khả năng tài chánh trên đây, BP có một Uỷ Ban Hành động Chính trị (BP’s Political Action Committee) riêng, chuyên lo về các hoạt động chính trị, đặc biệt là các vận động hành lang Quốc Hội và các cơ quan Chính phủ. Uỷ ban này chỉ riêng trong năm 2009 đã chi đến 16 triệu dollars cho các vận động đó!
Trên bình diện quốc tế, sự dính líu của BP đến chính trị quốc tế bắt nguồn từ các dự phóng chiến lược của đế quốc Anh dựa trên nguồn năng lượng dầu hoả mới phát khởi từ trước Thế Chiến Thứ Nhất. Đô đốc Fisher là người đầu tiên đã đưa vấn đề canh tân hạm đội của Hải quân Hoàng gia Anh bằng việc chuyển từ dùng than đá qua dùng dầu hoả làm nguồn năng lượng cho tàu chiến. Đệ Nhất Thế Chiến đã hiện thực và củng cố sáng kiến đó của Đô đốc Fisher, và dầu hoả đã trở nên nguồn năng lượng trung tâm của mọi tính toán mang tính quyết định cho các chiến thắng quân sự. Phe Đức-Áo-Hung đã thua chỉ vì mất dần khả năng làm chủ được nguồn dầu hoả cung cấp đủ cho cơ giới quân sự của phe mình. Ngay sau Đệ I Thế Chiến, người ta đã viết rằng “chiến tranh không dầu hoả là điều không thể tưởng tượng được (War without oil would be unimaginable). Thế Chiến Thứ Hai tái hiện cảnh tranh giành khốc liệt các kho dầu, như là mục tiêu hàng đầu, của cả hai phe. Động cơ chính khiến Hitler đột ngột đơn phương xé bỏ Hiệp ước Bất tương xâm, hạ lệnh tấn công Nga Sô-viết năm 1941, là để nhanh chóng chiếm cho được mỏ dầu Baku ở Ajerbaijan thuộc Liên Xô, vì lúc đó Đức không kiểm soát được một nguồn dầu hoả nào quan trọng cả, còn các nhà máy sản xuất nhiên liệu hổn hợp lại không cung ứng đủ nhu cầu chiến sự. Giai đoạn thất trận của Đức đã bắt đầu từ khi chiến dịch chiếm Baku bất thành. Còn Nhật Bản đã bất ngờ tấn công Pearl Harbor cũng chỉ vì đó là căn cứ hải quân chẹn họng đường hàng hải vận chuyển dầu của Nhật trên Thái Bình Dương từ Indonesia về. Vào giai đoạn, cuối, bộ máy chiến tranh của Nhật bị tê liệt vì lượng dầu hoả cung cấp bị phong toả giảm xuống chỉ còn 4% so với lượng dầu lúc ban đầu của cuộc chiến.
Từ sau Thế Chiến Thứ hai, có thể nói rằng không tình hình nơi nào nêu bật được mối quan hệ mật thiết dầu hỏa-chính trị hơn cho bằng tình hình Trung Đông. Trước đó, do trữ lượng lớn lao dầu hoả của khu vực này, ngay khi kết thúc Thế Chiến Thứ Nhất, Anh-Pháp, với mật ước Sykes-Pikot, đã chia nhau các vùng đất lớn của Trung Đông vốn thuôc đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ). Sự chia chác này đặt căn bản trên các khu vực mỏ dầu, xem thường lằn ranh về văn hoá và chủng tộc của dân bản xứ; tạo ra Kuwait, và hai quốc gia mới với dân Kurdish và Arabs trộn lẩn một cách khiên cưỡng là Syria và Iraq. Chính sự tuỳ tiện trong việc phân định ranh giới trong vùng này đã góp phần vào sự bất ổn chính trị của Khu vực kéo dài mải cho đến ngày nay.Các công ty dầu hoả Anh, Pháp và Mỹ, do sự chia chác kể trên, đã hoàn toàn kiểm soát dầu hoả của Trung Đông.
Thời hậu chiến, tuy vai trò của đế quốc Anh có phần suy giảm, nhường bước cho Mỹ, nhưng các công ty dầu hoả Anh-Mỹ vẫn giữ vị thế thống lĩnh vựa dầu Trung Đông. Nổi bật nhất là công ty Anglo-Iranian Oil Company(AIOC), tiền thân của BP, đã nắm độc quyền dầu hỏa ở Iran, là nước có trữ lượng lớn nhất vào thời đó. Nhưng sự tham lam của AIOC khiến người Iranian bất mãn, và với tinh thần quốc gia ngày càng mạnh, đã bầu lên một quốc hội mới với vị thủ tướng tên là Mohammed Mossadegh có chủ trương quốc hữu hoá các mỏ dầu với mức bồi hoàn thỏa đáng.
Chính phủ Anh, với sự hậu thuẩn của Mỹ, đã phản ứng dữ dội đối với việc quốc hữu hoá mỏ dầu của thủ tướng Mossadegh, hạm đội Anh được đưa đến dọc duyên hải Iran, không quân được chuyển đến Iraq giáp giới Iran. Ngoài ra Anh-Mỹ cùng nhau cấm vận và phong toả tài chánh Iran, gây cho Iran vô vàn khốn đốn. Cuối cùng, tháng 8 năm 1953, với sự hoạt động tích cực của CIA, thủ tướng Mossadegh bị lật đổ, quyền lực thật sự của Iran được trao lại cho vua Reza Shah Pavlevi là người trước đây chỉ giữ vai trò nguyên thủ hình thức (formal figurehead), nhưng nay được sự hậu thuẩn mạnh của Anh-Mỹ. Với sự nắm quyền của Shah, quyền lợi của các công ty dầu, nhất là của AIOC, lại được củng cố như trước, kéo dài cho đến năm 1979, khi Shah bị cuộc cách mạng Hồi giáo (Islamic Revolution), do Ayatollah Khomeini lãnh đạo, nổi lên lật đổ.
Một biến cố khác nói lên mối quan hệ dầu hoả-chính trị là cuộc chiến tranh Yom-Kippur vào tháng 10/1973 giữa Ai-cập, Syria và Do Thái, và theo sau cuộc chiến tranh đó là cuộc khủng hoảng dầu hoả thế giới lớn nhất của thế kỷ 20 gây ra do sự cấm vận dầu hoả của các quốc gia Ả rập đối với phương Tây để trả đủa việc khối này đã ủng hộ Do Thái. Cuộc khủng hoảng dầu hỏa, khiến giá dầu tăng 400%, gây ra nhiều hậu quả kinh tế, chính trị và xã hội lớn lao cho Mỹ, Tây Âu, Nhật và các nước khác trên thế giới. Thất nghiệp lan tràn, nhiều nội các sụp đổ, một số quốc gia đã phải áp dụng chính sách định mức trong việc dùng xăng dầu, giá lương thực cũng theo giá dầu mà tăng cao vùn vụt.
Về sau này có tác giả cho rằng cuộc chiến tranh Yom-Kippur giữa Do Thái-Ả rập là một âm mưu của các công ty dầu hỏa và giới tài phiệt ngân hàng Anh-Mỹ, thông qua bàn tay của Henry Kissinger, lúc đó vừa là Bộ Trưởng Ngoại Giao vừa là Cố Vấn An Ninh Quốc gia, dàn dựng ra. Có thể nói Kissinger là một trường hợp đặc biệt; trong lịch sử chính trị của Mỹ, hầu như chưa có một bộ trưởng ngoại giao nào lại có quyền hạn rộng rãi như Ông. Trong lúc TT Nixon đang gặp rắc rối vì vụ Watergate, thì Kissinger gần như trọn quyền thao túng cả trong lãnh vực ngoại giao lẩn trong lãnh vực tình báo. Cũng theo các tác giả đó thì Kissinger đã gài bẩy để cho Ai Cập và Syria tấn công Do Thái, xong rồi cung cấp tin tức tình báo và yểm trợ để cho Do Thái đánh bại khối Ả Rập. Làm vậy có hai điều lợi: thứ nhất là giúp Do Thái, một đồng minh chiến lược của Mỹ, mở rộng lãnh thổ, củng cố thế mạnh của mình; thứ hai là gây công phẩn trong khối Ả Rập dẩn đến việc cấm vận dầu hỏa, giá dầu gia tăng cao, mà dầu lại được mua bán trên thị trường quốc tế bằng dollars, như vậy sẽ giúp dollars mạnh lên và giới ngân hàng Anh-Mỹ được lợi. Người ta cũng trưng bằng cớ là Arabia Saudi, nước có lượng dầu lớn nhất trong khối OPEC, đã bí mật thỏa thuận, thông qua cơ quan Saudi Arabian Monetary Agency (SAMA), dùng phần lớn tiền thu được do dầu hoả tăng giá để tài trợ cho sự thiếu hụt ngân sách của chính phủ Mỹ, bằng cách đầu tư vào những ngân hàng ở Mỹ do sự hướng dẩn của viên chức Bộ Ngân Khố.
Tất nhiên, cách giải thích như trên nghe rất hẩp dẩn, nhưng không chắc đã là lời giải thích hợp lý và đầy đủ duy nhất về nguyên nhân của cuộc khủng hoảng dầu, lớn lao và phức tạp, năm 1973. Nhưng chí ít lối giải thích như vậy đã giúp nêu lên được vai trò quan trọng của dầu hoả trong chính trị quốc tế.
Gần đây nhất, có hai sự kiện thời sự chính trị quốc tế lớn lao khác ít nhiều dính líu đến dầu hoả; đó là các cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan.
VỀ CHIẾN TRANH IRAQ: Những lý do vẫn thường được nại ra để biện minh cho việc chính phủ Mỹ của TT George W. Bush đưa quân tấn công Iraq là:
• Iraq với nổ lực thủ đắc Vũ Khí Huỹ Diệt Hàng loạt (WMD) là mối đe doạ tức thời (imminent threat) đối với an ninh của Mỹ và đối với đồng minh, và là nguyên nhân gây bất ổn ở Trung Đông.
• Lật đổ chế độ độc tài tàn bạo của Saddam Hussein, giúp dân Iraqi xây dựng chế độ dân chủ, kiến tạo hoà bình cho Khu vực.
• Saddam Hussein có quan hệ với bọn khủng bố đã gây ra vụ 9/11 ở Newyork, giết hại nhiều ngàn thường dân vô tội Mỹ.
Trước nhất, cho đến nay giới thạo tin đều thừa nhận rằng không hề có một mối quan hệ nào giữa chế độ Saddam Hussein và bọn khủng bố Al-Qadae cả. Cũng không một ai, kể cả chính phủ Bush và CIA, trưng ra được bất kỳ một bằng chứng nào là Saddam Hussein đã dính líu với bọn khủng bố ngày 9/11 ở Newyork. Trái lại người ta hiện có nhiều chứng cớ là Saddam Hussein không đồng ý và không ưa các chủ trương của Al-Qadae, đôi khi ngay cả truy bắt các thành viên Al-Qaeda nữa.
Về vũ khí WMD, hoặc nổ lực của Saddam Hussein để thủ đắc vũ khí nguyên tử, thì đến nay mọi sự đều đã rõ. Từ sau khi TT Bush tuyên bố Mission complete cho đến nay, hằng nhiều năm sau ngày quân đội Anh-Mỹ kiểm soát toàn bộ Iraq, người ta đã chẳng tìm thấy dấu vết nào của những vũ khí như vậy cả. Có chăng là chỉ một số lượng nhỏ những vũ khí sinh hoá học còn lưu lại từ thời chiến tranh Iran-Iraq trước kia. Nhưng đối với các loại vũ khí hoá học này thì có nhiều tài liệu cho thấy là trong suốt cuộc chiến Iran-Iraq, Saddam Hussein đã được đại diện của TT Reagan, thời đó là ông Donald Rumsfeld, tiếp xúc và ngầm giúp đỡ, và chính phủ Mỹ lúc đó đã biết rõ việc Saddam Hussein đang dùng vũ khí hoá học, chế tạo được với sự giúp đỡ của một số công ty hoá chất Mỹ, để chống Iran. Câu hỏi được đặt ra là tại sao nước Mỹ thời của TT Reagan lại làm ngơ cho việc Saddam Hussein xử dụng vũ khí hoá học, nhưng nay đến thời của TT Bush lại lấy đó làm một nguyên cớ khai chiến với Saddam Hussein. Có lẽ trước kia chính phủ của TT Reagan muốn mượn tay Saddam Hussein để trả thù Iran về vụ nước này đã quốc hữu hoá dầu hoả và đuổi các công ty dầu của Mỹ ra sau ngày cuộc cách mạng Hồi giáo thành công?
Riêng vấn đề lật đổ chế độ độc tài của Saddam Hussein để giúp dân Iraq xây dựng một chế độ dân chủ thì những ai am tường tình hình Iraq từ 7 năm qua đều dễ dàng nhận ra đó chỉ là sự tuyên truyền nhằm biện minh khéo léo cho cuộc chiến đẩm máu mà thôi. Những lời hô hào của chính phủ Bush về “Democracy is on the March” hoặc “the export of demorcracy” (xuất cảng Dân chủ) thực hiện bằng quân viễn chinh qua Iraq không khỏi khiến người Việt chúng ta nhớ lại sự hô hào trước đây trong thế kỷ 19 về việc “ khai hoá cho dân An Nam” của thực dân Pháp hoặc việc tượng của viên toàn quyền Paul Bert cao lớn đang dắt tay một người trẻ Việt nam nhỏ nhắn “đi lên con đường tiến hoá” được dựng trong các công viên ở Hà Nội thời xưa. Có nghĩa rằng đó chỉ là những huyền thoại chính phủ Bush đã dùng để phục vụ cho các mục đích chính trị vị lợi, và phần nào cũng để trừng phạt Saddam Hussein về một tội tày đình; đó là dám cả gan định bán dầu hoả Iraq để lấy đồng EURO, thay vì lấy đồng dollars như định lệ quốc tế sẳn có. Vào năm 2001, Saddam Hussein đã ra lệnh chuyển 10 tỉ dollars quỷ “oil for food” ở Liên Hiệp Quốc qua đồng EURO. Đó chính là bản án tử hình mà Saddam Hussein tự chuốc lấy khi dám thách đố quyền uy bá chủ thế giới của đồng dollars!
Để được rõ hơn về vấn đề dầu hoả-dollars, xin trình bày thêm ở đây rằng kể từ sau khi TT Richard Nixon tuyên bố bỏ chế độ kim bản vị năm 1971, theo đó Bộ Ngân Khố sẽ thôi không đem vàng trả cho người sỡ hữu dollars theo hối suất $35/ounce nữa, thì đồng dollars lại dựa trên dầu hoả. Dầu hỏa được mua bán trên thị trường quốc tế bằng một loại tiền tệ duy nhất là đồng dollars. Nghĩa là tuy không còn chế độ kim bản vị nữa, nhưng dollars vẫn giữ vai trò tiền tệ mạnh nhất, là dự trữ ngoại hối của tất cả các nước trên thế giới; mọi quốc gia đều cần đến dollars cho các dịch vụ thanh toán mậu dịch quốc tế, để trả nợ cho nhau hoặc cho các định chế tài chánh quốc tế, và để duy trì sự ổn định cho đồng tiền của quốc gia mình. Những nước để dành được số lượng ngoại hối bằng dollars lớn nhất là Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ, Saudi Arabia,v.v…Tình hình đó tạo ra một nhu cầu lớn lao và thường xuyên đối với dollars trên thị trường thế giới. Dollars như vậy trở thành một loại tiền tệ đặc biệt, gần như độc lập đối với tình trạng của chính nền kinh tế đã sinh ra nó. Nhiều khi có thể so dollars như những tấm chi phiếu (checks) được viết ra nhưng không hề phải lo sẽ bị đổi thành tiền (cash transaction).
Điểm khác nữa là sau khi dự trữ được nhiều dollars, các nước bèn dùng lượng dollars đó để mua công khố phiếu (treasury bills) của chính phủ Mỹ, chứng khoán (stocks) của các công ty, hay đầu tư trở lại vào lãnh vực địa ốc ở Mỹ. Đây chính là hình thức các nước tài trợ cho nền kinh tế Mỹ. Khi thiếu hụt ngân sách, chính phủ Mỹ thường phát hành công khố phiếu để bán lấy tiền bù cho sự khiếm hụt của mình. Trung Quốc, chẳng hạn, là nước mua rất nhiều công khố phiếu của Mỹ, vô tình đã trở thành kẻ tài trợ cho sự khiếm hụt ngân sách của Mỹ!
Những điều vừa trình bày trên đây tuy đơn sơ và vắn tắt, nhưng cũng phần nào giúp hình dung được hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế Mỹ của tình trạng một lúc nào đó nhiều, hoặc tất cả, các nước sản xuất dầu hoả đồng loạt không bán dầu lấy dollars mà lại lấy một loại tiền tệ khác, như đồng Euro chẳng hạn. Chính viễn ảnh nghiêm trọng đó giúp giải thích cơn thịnh nộ của Mỹ đối với việc Saddam Hussein bán dầu lấy Euro. Nó cũng giúp hiểu rõ hơn quan hệ ngoại giao trở nên tồi tệ giữa Mỹ của TT Bush và Venezuela của Chavez Hugo trong những năm trước đây. Lý do là vì Venezuela là quốc gia Nam Mỹ có sản lượng dầu hoả lớn, trữ lượng gần 100 tỉ thùng, đã trải qua nhiều thập niên bán dầu vào thị trường Mỹ, có lúc lên đến 1.4 triệu thùng dầu thô/ ngày. Những năm sau này, Chavez Hugo đã thỏa thuận đem dầu hoả ra trao đổi (bartering) với hơn 10 quốc gia Nam Mỹ khác, không cần bán dầu đổi lấy dollars. Chẳng hạn như Chavez thỏa thuận trao dầu cho Cuba để đổi lấy việc Cuba cung cấp chuyên viên y tế cho Venezuela. Trao đổi dầu lấy sản phẩm các nước khác trực tiếp như vậy tức là bỏ qua vai trò trung gian của tiền tệ, của dollars; nghĩa là góp phần làm giảm mức cầu, hay đúng hơn, làm suy yếu vị thế của dollars. Ngoài ra, Chavez cũng nổ lực mở rộng thị trường dầu qua Trung Quốc để giảm sự lệ thuộc vào thị trường Mỹ. Những việc làm đó của Chavez rỏ ràng là một thách thức đối với vị thế bá chủ của Mỹ, và người ta không ngạc nhiên khi, trong những năm gần đây, giới truyền thông Mỹ đã không ngớt xây dựng hình ảnh xấu về Chavez và hệ thống chính trị của Venezuela, cũng như tin tức về các âm mưu đảo chánh để lật đổ Chavez.
Trở lại trường hợp Saddam Hussein, Iraq là nước sản xuất và có trữ lượng dầu hỏa lớn thứ nhì thế giới. Dầu hỏa của Iraq lại dễ khai thác, giá thành hạ. Và Iraq là một thành viên quan trọng của OPEC (Tổ chức các quốc gia sản xuất dầu). Việc Iraq của Saddam Hussein đổi qua bán dầu lấy Euro, thay vì dollars, rõ ràng là một đe doạ nghiêm trọng đối với vị trí thống trị của đồng dollars trên thị trường thế giới, gây đảo lộn mối tương quan dollars-dầu hỏa mà giới tài chánh-dầu hỏa Mỹ đã mất nhiều công sức tạo dựng để phục vụ cho nền kinh tế đứng đầu thế giới. Chính phủ của TT Bush không thể tha thứ cho một việc làm như vậy, nhất là khi Iraq-sau nhiều năm chiến tranh và bị cấm vận-đang trong tình trạng phân hoá xã hội và rất suy yếu về quân sự.
Về chiêu bài giúp xây dựng Dân Chủ cho dân Iraq.Một bằng chứng hiển nhiên khác trong thái độ hàng hai (double standards) của chính giới Mỹ đối với vấn đề dân chủ và nhân quyền là trường hợp Saudi Arabia. Đây là quốc gia Hồi giáo khắc nghiệt, cuồng tín, độc tài và tàn bạo nhất hiện nay trên thế giới. Hai chế độ độc tài chuyên chế được nói đến nhiều nhất hiện nay là Bắc Hàn và Miến Điện. Nhưng so ra mức độ chuyên chế ở Saudi Aribia cũng không kém cạnh chút nào. Không chừng còn tệ hại hơn vì Saudi Arabia là một quốc gia Hồi Giáo thần quyền; nghĩa là dùng giáo luật của hệ phái Wahhabism, một hệ phái Hồi giáo cực đoan, làm luật pháp cho cả vương quốc. Saudi Arabia là quê hương của 15 trong số 19 tên khủng bố tự sát trong vụ 9/11!
Vương quốc Saudi Arabia lấy quốc hiệu theo bộ tộc Saudi, hưng thịnh lên từ khoảng những năm 1930s dưới triều đại của vua Ibn Saud, là người đã có một quan hệ rất thân thiện với TT Franklin Roosevelt. Nguồn tài nguyên duy nhất và cũng nhiều nhất thế giới của vương quốc Saudi Arabia là dầu hoả. Nhưng nguồn lợi dầu hoả đã không được phân chia công bằng giữa 28 triệu người dân trong nước. Khoảng 40% lợi tức dầu hoả lọt vào túi của hơn 6,000 hoàng tử của hoàng tộc Saudi; chỉ 60% lợi tức đó đến tay dân chúng!
Tại Saudi Arabia, hàng ngày người dân phải cầu kinh theo những giờ giấc ấn định, có sự nhắc nhở của cảnh sát tôn giáo (religious police). Sự kỳ thị các tôn giáo khác một cách công khai chính thức là một nét khác của vương quốc này. Tất cả những ai không là tín đồ Hồi Giáo Wahabism thì đều bị xem là kẻ ngoại đạo (infidels), không được nhập tịch và không được vào các vùng thánh địa như Mecca, Medina. Thập tự giá của Ki-tô giáo cũng không được chấp thuận. Ngay cả cờ của tổ chức Hồng Thập Tự (Red Cross) quốc tế cũng không được dương lên và bị thay thế bằng cờ Trăng Lưỡi Liềm Đỏ (Red Crescent). Tinh thần bài xích người Do Thái và Kitô giáo là hết sức mãnh liệt. Một trường hợp nổi bật nhất là ngay cả Tổng Thống Bush (senior), trong dịp lễ Thanksgiving năm 1991 khi đến viếng thăm quân Mỹ, được gởi đến Saudi Arabia để đề phòng sự tấn công vào Vương quốc của Saddam Hussein, đã không được có thánh lễ cử hành trên đất của Vương quốc, mà thánh lễ đó chỉ được tiến hành trên chiến hạm USS Durham neo ngoài khơi thuộc hải phận quốc tế!
Sự đối xử bất bình đẳng đối với phụ nữ là một nét tiêu biểu khác của Saudi Arabia. Phụ nữ không được tự do di lại ở nơi công cộng mà không mang mạng che mặt và không có chồng cùng đi. Khi ra khỏi nhà phụ nữ phải mặc loại váy dài màu đen che kín hai chân. Những quy định nghiêm nhặt như vậy áp dụng cho mọi phụ nữ, kể cả người ngoại quốc. Ngay cả những nữ quân nhân của Mỹ, trong thời gian tạm trú đóng tại một vài vùng giới hạn ở Saudi Arabia, khi ra phố cũng bị buộc phải mang loại váy như vậy, không được để lộ hai chân. Chế độ đa thê được luật pháp chấp thuận. Người vợ không được cấp visa xuất ngoại nếu trên đơn xin không có chữ ký ưng thuận của chồng!
Điểm khác nữa là càng ngày càng có nhiều dư luận nghi ngờ về việc Saudi Arabia thiết lập và dùng các quỹ từ thiện mang danh Hồi Giáo để, không những truyền bá giáo lý cực đoan Wahhabism ra các nước khác gây thanh thế cho mình mà còn, gián tiếp tài trợ cho các tổ chức khủng bố Al-Qaeda. Điều này đã ít nhiều được đề cập đến trong báo cáo điều tra của Thượng Viện năm 2003 và trong báo cáo của Uỷ Ban 9/11.
Một điểm nữa là Saudi Arabia, với ngân sách khổng lồ, đã không ngừng mua sắm và tàng trữ nhiều loại vũ khí hết sức tối tân. Ngoài vũ khí từ Mỹ, vương quốc này còn mua vũ khí từ Pháp, Anh và nhiều nước khác. Vương quốc ngay cả đã có một kế hoạch Scorched Earth rất nguy hiểm, trong đó các loại dirty bombs sẽ được dùng phối hợp với một chất nổ có tên là Semptex (đã bị luật quốc tế cấm), mà chỉ ½ pound thôi là đủ nổ tung một phi cơ lớn, để phá huỷ các mỏ dầu trong trường hợp nguy cấp. Kế hoạch đó nhằm làm cho toàn bộ cơ cấu dầu hỏa của Vương quốc, khi cần sẽ hoàn toàn bị tê liệt không xử dụng hoặc khai thác được trong vòng nhiều thập niên sau đó do bị ô nhiễm bụi phóng xạ. Kế hoạch Scorched Earth đó được xây dựng để làm nản lòng tất cả những ai, kể cả Mỹ, muốn bất thần dùng quân sự để khống chế các mỏ dầu của Vương quốc.
Những gì trình bày trên đây cho thấy, xét từ gốc độ Dân Chủ và Nhân Quyền phổ quát, so với Iraq của Saddam Hussein thì vương quốc Saudi Arabia cũng tệ hại không kém, nếu không muốn nói là còn tệ hơn . Và nếu đối chiếu với những lý do của TT Bush biện minh cho việc xâm chiếm Iraq đã nói đến ở phần trước thì một câu hỏi hiển nhiên sẽ được đặt ra là tại sao tình hình của Saudi Arabia về Dân Chủ, Nhân Quyền, sỡ hữu Vũ Khí Huỷ Diệt Hàng Loạt (WMD) tồi tệ và nguy hiểm như vậy, mà Mỹ không động gì đến Vương Quốc, lại chỉ nhất mực tấn công Iraq? Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi đó chính là một phương cách hay nhất để lột trần huyền thoại về việc chính phủ Mỹ của TT Bush (trẻ) đã xâm chiếm Iraq để giúp dân Iraqi lật đổ độc tài và xây dựng Dân Chủ.
VỀ CUỘC CHIẾN AFGHANISTAN
Mùi dầu hoả cũng đã dây vào cuộc chiến Afghanistan cùng một cách như nó đã có đối với cuộc chiến tranh Iraq. Nhưng mối liên hệ này, một lần nữa, lại bị cố ý che khuất khỏi nhãn quan thông thường.
Lật lại quá khứ, năm 1979 Liên Sô đã đưa quân vào Afghanistan để ứng cứu cho chế độ thân cộng vừa bị lật đổ. Sự can thiệp đó của Liên Xô đã dấy lên một cuộc kháng chiến lớn lao của dân Afghans với sự hậu thuẩn mạnh mẽ nhất của Mỹ, sau nữa là Trung Quốc, Iran, Saudi Arabia qua trung gian của Pakistan. Liên Xô chiếm ưu thế về hoả lực, làm chủ thành thị; còn phe kháng chiến Afghan, gọi là Mujahidin, làm chủ nông thôn và vùng đồi núi. Dần dà về sau, phe kháng chiến nhận được những vũ khí tối tân, kể cả hoả tiển cầm tay chống máy bay Stingers của Mỹ, và sự ủng hộ tài chánh dồi dào từ các nước; đặc biệt là sự tiếp tay của CIA và ISI (Inter-Services Intelligence, của Pakistan) trong lãnh vực tình báo và huấn luyện.Liên Xô đã đưa đến, lúc cao điểm, hơn 100,000 quân vào. Cuộc chiến kéo dài đến gần 10 năm, Mỹ và các nước vừa nêu đã thành công trong việc khiến cho Liên Xô sa lầy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế. Cuối cùng, năm 1988, sau gần 10 năm can thiệp, Gorbachov đã phải rút quân Liên Xô về, sau khi chết mất hơn 15,000 quân và 37,000 binh sĩ khác bị thương.
Cuộc chiến khiến Afghanistan bị tàn phá nặng nề, hơn 1 triệu người chết, 5 triệu người lưu tán, hàng triệu bom mìn chưa nổ rãi rác khắp lãnh thổ, cơ sở hạ tầng hoàn toàn bị huỷ hoại. Sau khi quân Liên Xô rút về, nội bộ phe kháng chiến lại chém giết nhau. Tình hình hổn loạn đó kéo dài đưa đến sự ra đời của Taliban, một lực lượng mạnh kiểm soát phần lớn đất đai, chọi nhau với Liên Minh Bắc Phương (Northern Alliance) của những tay quân phiệt.
Điều đáng chú ý là từ sau khi Liên Xô rút quân về cho đến 9/11/2001, Mỹ- cường quốc chủ chốt hậu thuẩn cho đội quân Mujahidin trước đây, trong đó cả trùm khủng bố Al-Qaeda hiện nay là Bin Laden- hoàn toàn bỏ mặc Afghanistan. Mỹ đã không lãnh đạo một nổ lực quốc tế nào giúp tái lập trật tự và hàn gắn vết thương chiến tranh cho Aghans, dân tộc đã tiếp nhận sự giúp đỡ vũ khí của Mỹ để đánh bại đối thủ lớn nhất của Mỹ trong thế kỷ 20, đã góp phần làm kinh tế của Liên Xô kiệt quệ, dẩn đến sự sụp đổ của Liên Xô trong chỉ vài năm sau đó. Khi đã thành công trong việc làm suy kiệt Liên Xô, Mỹ đã bỏ mặc người Afghans và đất nước khốn khổ hổn loạn của họ mà không hề có một sự viện trợ nào dù nhỏ. Điều này đã tạo ra một khỏang trống quyền lực, làm môi trường thuận lợi cho nội chiến và sự ra đời của phong trào cực đoan Taliban.
Cũng không khác gì sau 1975, Mỹ đã bỏ mặc Việt Nam Cộng Hoà, quay lưng lại với hàng triệu quân cán chính, thương phế binh, cô nhi quả phụ sống khốn cùng bên lề xã hội của một nước Việt Nam thống nhất dưới chế độ CS. Từ 1975 cho đến nay, đặc biệt nhất là sau khi mà Mỹ đã lập quan hệ chính thức với VNCS, Mỹ chỉ lo toan cho chương trình MIA để tìm người mất tích của họ, chỉ dùng nhân quyền như một lá bài mặc cả với VC trong vấn đề mậu dịch, và nhiều lắm là đón nhận những cựu tù cải tạo để đáp ứng chính sách di dân truyền thống, chứ chưa bao giờ các chính phủ Mỹ đặt vấn đề trợ giúp nhân đạo cho hàng trăm ngàn thương phế binh, cô nhi quả phụ tử sĩ của VNCH trước đây, những người đã một thời chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ trong trận tuyến chống lại Cộng Sản quốc tế, và đem vấn đề đó ra để áp lực với phía VNCS nhằm buộc chính phủ CS phải có chính sách kinh tế-xã hội đúng đắn và nhân đạo đối với tình trạng thương tật và cô qủa của người chiến bại, chấm dứt sự kỳ thị đối với họ. Mỹ cũng ngay cả không để tâm đến những hoạt động cứu trợ TPB/VNCH của người Việt tị nạn tại Mỹ!
Thái độ bỏ mặc Afghanistan của Mỹ, theo kiểu “được chim quên ná, được cá quên nơm”, có thể đã kéo dài mải như vậy. Nhưng rồi, đùng một cái Liên Xô đổ, mở ra cơ hội chiến lược mới ở Trung Á, và vùng biển Caspean- những nước mới ra khỏi gông xiềng Sô viết-khiến chính giới Mỹ, những người lâu nay vẫn đại diện không chính thức cho quyền lợi của các công ty dầu hỏa, chú ý và đổi thay thái độ. Dư luận Tây Phương bắt đầu nói nhiều về các mỏ dầu và hơi đốt của Trung Á. Những ước tính sơ khởi về tiềm năng dầu-hơi đốt của những quốc gia bao quanh Caspean rất lạc quan, có người đã kết luận rằng, dầu hỏa ở đây, với trữ lượng lên đến gần 200 tỉ thùng, sẽ rất quan trọng, đứng hàng thứ hai sau vùng Trung Đông. Mặt khác, cũng có người muốn tìm cách để chuyển vận dầu và hơi đốt của vùng này ra bên ngòai mà không phải đi qua lãnh thổ của Iran hay của Nga. Từ đó đã ra đời những dự án đường ống dẩn dầu từ biển Caspean, Kazakhstan, Turkmenistan và từ vài nước Trung Á khác, băng qua Afghanistan, Pakistan rồi ra biển. Đường ống đó sẽ giúp giá thành dầu hạ xuống và hoàn toàn độc lập với dầu ở vùng Vịnh Trung Đông. Đi tiên phong trong đề án này là Unocal, một công ty dầu có bản doanh ở California, với đường ống dự trù dài hơn 1,000 miles, tốn phí khoảng 2.5 tỉ dollars, sẽ chuyển vận 1,000,000 thùng/ ngày đến vùng biển Pakistan, thuộc Arabian Sea, thông ra Ấn Độ Dương.
Michael Klare, một học giả tiếng tăm, tác giả của quyển Resource Wars tóm lược quan điểm của Ông, tiêu biểu cho nhận định của chính giới Mỹ, đối với mỏ dầu Trung Á: "I think in this case this is a national security consideration that's driving all of this. The United States has to get that oil from that region [Central Asia] and will make a deal with whatever governments are there in place that are willing to work with us, like the governments in Azerbaijan and Kazakhstan and Turkmenistan that are far from ideal with respect to human rights and democratic procedure. And I think that's a reflection of the view that I write about in my book -- we view oil as a security consideration and we have to protect it by any means necessary, regardless of other considerations, other values."
(Tạm dịch: Tôi nghĩ rằng trong vấn đề này động lực chi phối tất cả chính là sự cân nhắc về an ninh quốc gia. Mỹ phải lấy được dầu từ vùng Trung Á đó và phải dàn xếp được với bất kỳ chính phủ nào trong vùng muốn hợp tác với chúng ta, như chính phủ Azerbaijan, Kazakhstan hoặc Turkmenistan mà quá trình dân chủ và nhân quyền còn khiếm khuyết. Và tôi nghĩ rằng điều đó phản ảnh quan điểm tôi đã viết ra trong sách - rằng chúng ta xem dầu hoả là vấn đề an ninh và phải bảo vệ nó bằng mọi phương cách cần thiết bất chấp những bận tâm hoặc các giá trị lý tưởng nào khác.)
Câu nói trên của Klare phần nào giúp soi sáng cho việc đi tìm nguyên nhân đơn giản, nhưng thầm kín, của cuộc chiến tranh Afghanistan hiện nay. Tuy trên bề mặt, bộ máy tuyên truyền khổng lồ đã tìm cách diễn giải khác đi bằng cách vin vào vụ 9/11 và cho rằng mục đích của cuộc chiến là đánh đổ Taliban, chế độ đã dung chứa Bin Laden, kẻ chủ mưu 9/11, và là đồng minh của Al-Qaeda. Ngay chính TT Obama cũng công khai tuyên bố như vậy. Nhưng gần 10 năm đã trôi qua, và càng ngày càng ít nghe nhắc tới mục tiêu ban đầu là truy bắt Bin Laden. Mới đây Leone Panetta, Giám Đốc CIA, đã cho biết rằng số lượng thành viên Al-Qaeda ở Afghanistan đã bị tiêu diệt rất nhiều, con số hiện thời chỉ còn khoảng từ 50 cho đến 100. Chỉ với chừng ấy thành viên Al-Qaeda, nhưng sao lại phải huy động cả hàng mấy chục ngàn quân sĩ của Mỹ và Đồng minh, tiêu tốn hàng trăm tỉ dollars/ năm để đối phó trong lúc ngay cả Quốc Hội Mỹ lại không đủ tiền để trợ cấp cho hàng triệu người thất nghiệp ? Còn Taliban có là mối đe doạ tức thời đối với an ninh của Mỹ? Chắc chắn là không, vì mục đích cao nhất của họ chỉ là nắm quyền cai trị Afghanistan, đất nước của họ, và đánh đuổi quân ngoại quốc ra khỏi lãnh thổ. Taliban cũng không đủ khả năng quân sự và kỹ thuật để có thể đe doạ nền an ninh của Mỹ. Về mặt này, Taliban còn thua rất xa Bắc Hàn. Vậy lý do tiềm ẩn của cuộc chiến Afghanistan là điều gì khác hơn với những gì đã được công khai nêu ra; và lý do đó đã được Michael Klare trình bày ở trên.
Mặt khác những diễn tiến mới nhất ở Afghanistan cho thấy rằng về mặt quân sự Mỹ chưa đạt được ưu thế, tuy đã tăng thêm hơn 30,000 quân. Chiến thuật surge áp dụng thành công phần nào ở Iraq, nhưng lại không mấy thành công ở Afghanistan. Điểm căn bản trong chiến thuật surge ở Iraq là thay đổi chính sách, không loại trừ mà trái lại trả lại phần nào quyền lực cho hệ phái Sunni, chấp nhận cho họ có vai trò trở lại trong chính trường Iraq. Trước đó, Mỹ đã phá nát toàn bộ hệ thống quyền lực của phái Sunni (phái của Saddam Hussein), nâng đỡ và đưa hệ phái Shìi lên. Tình hình Iraq đã lắng dịu hơn chính là do đa số phái Sunni bằng lòng hợp tác. Nhưng Afghanistan không phải là Iraq và Taliban không có sự phân hoá nội bộ thành hai phe như người Iraqi. Chính vì vậy mà chiến thuật surge đã không thành công. Trước đây chính phủ của Obama cứ tưởng rằng Surge sẽ thành công như ở Iraq nên vội vàng ấn định deadline tháng 7/2011. Nhưng nay thì Obama đành phải “cà lăm ", bảo rằng tháng 7/2011 chỉ là mốc thời gian chuyển tiếp (transitional time/ period). Nhưng Taliban lại có được một ưu điểm so với Mỹ; đó là sự kiên nhẩn. Tắt lại, Mỹ không mong và cũng không có khả năng đạt một chiến thắng quân sự hoàn toàn ở Afghanistan. Cuối cùng chiến cuộc có thể kết thúc bằng một giải pháp chính trị mà mục tiêu không phải là loại trừ vĩnh viễn Taliban, nhưng là sự cộng tác của một Taliban công nhận quyền lợi dầu hoả của Mỹ ở Trung Á.
Tóm lại, chiến tranh Iraq và chiến tranh Afghanistan là hai trường hợp điển hình của mối quan hệ dầu hoả-chính trị trên phạm vi thế giới. Nó nói lên vai trò hết sức quan trọng của nguồn năng lượng phổ biến nhất hiện nay của nền văn minh cơ khí Tây Phương: dầu hỏa. Kể từ ngày dầu hoả được dùng thay cho than đá, và với sự ra đời của động cơ đốt trong (internal combustion engines), dầu hoả đã đóng chức năng như “ máu huyết “ của nền văn minh. Ngay trong phạm vi căn bếp của mỗi gia đình hiện nay, sự hiện diện của dầu hoả và các phó phẩm của nó là bao trùm; không vật dụng nào mà không dính dáng xa gần đến dầu hoả. Ra bên ngoài, dầu hỏa cũng có mặt ở khắp nơi : đường sá, cầu cống, xe cộ, máy bay, nhà máy, dược phẩm, áo quần, phân bón, thuốc trừ sâu v.v…Có thể nói mà không sợ sai rằng nhân loại đang sống trong nền văn minh dầu hoả; thiếu nó, nền văn minh này có cơ ngưng thở. Cứ thử tưởng tượng đến một lúc nào đó toàn bộ trữ lượng dầu hoả trên trái đất này khô cạn, nền văn minh sẽ ra sao?
Hiện nay Mỹ, với dân số chỉ bằng 5% của thế giới, tiêu thụ hơn 25% lượng dầu sản xuất toàn cầu, phần lớn là mua từ Trung Đông. Trong tương lai không xa, khoảng năm 2030, mức tiêu thụ dầu của Trung Quốc, với 1.5 tỉ dân và kinh tế tăng trưởng nhanh, sẽ bắt kịp mức của Mỹ. Hiện nay 58% lượng dầu Trung Quốc tiêu thụ cũng là nhập từ Trung Đông, nơi có trữ lượng lớn nhất thế giới. Các nước đang lên như Brazil, Russia, India cũng đang gia tăng nhu cầu về dầu hỏa của mình. Nhưng trữ lượng dầu hoả rõ ràng là hữu hạn. Có thể hình dung dự trữ dầu thế giới như một miếng bánh, phần chia miếng bánh của người này tăng tất yếu dẩn đến phần chia của người khác bị thu nhỏ. Tình hình như vậy thường đưa mỗi người đến một trong hai lựa chọn: tìm loại bánh khác cho mình, hoặc dùng vũ lực để lấn chiếm phần người bên cạnh. Tương tự như vậy trên bình diện toàn cầu, sẽ đến lúc nhân loại phải hoặc tìm một nguồn năng lượng mới phong phú hơn thay cho dầu hoả, nghĩa là phải làm một cuộc cách mạng lớn lao trong lịch sử để tồn tại hoà bình; hoặc phải đưa nhau vào một cuộc thế chiến thứ ba mà hậu quả sẽ là sự diệt vong. Sự lựa chọn đã rõ ràng và sẽ là phần thưởng lớn cho dân tộc, quốc gia nào gây ra được sự đột phá tiên phong trên con đường đi tìm nguồn năng lượng mới. Mong sao giới lãnh đạo trẻ Việt Nam sau này sẽ đặt phần thưởng đó thành mục tiêu chiến lược hàng đầu nhằm sớm đưa Đất Nước ra khỏi lối mòn dầu hoả.
Sunnyvale, ngày 4/7/2010
NT5 TRƯƠNG ĐÌNH TRUNG tổng hợp
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)