Dịch từ Anh Ngử tới các ngôn ngử khác
Thứ Hai, 31 tháng 10, 2011
Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát - La Meurtrissure
[a film by André Menras Hồ Cương Quyết] Đây là một phim tài liệu về cuộc đời hàng ngày của anh chị em ngư dân miền Trung (Bình Châu và Lý Sơn). Nó cho thấy rõ hoàn cảnh cực kỳ khó khăn và nguy hiểm của việc hành nghề biển xa bờ tại vùng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, đã bị bắn giết-cầm tù bởi hải quân Tàu cộng, trước sự bất lực và bất động của nhà cầm quyền XHCN Việt Nam.
- This film is dedicated to the fishermen of Binh Chau and Ly Son (Central Vietnam) victims of Chinese navy agressions when they go fishing in the Hoang Sa Archipelago zone (Paracels islands), under Vietnamese sovereignty. With my entire solidarity to resist against this new imperialism.--André Menras--
Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2011
T.Vấn : Để tang cho sách hay để tang cho người ?
1.
“Ông chết nhẹ nhàng như gấp lại một cuốn sách. Tính ra, ông đã để tang cho sách đúng một trăm ngày. “
Những dòng chữ “ nhẹ nhàng “ kết thúc “ Để tang cho sách “ của nhà văn Khuất Đẩu hẳn để lại một dư vị chẳng lấy gì làm nhẹ nhàng lắm cho người đọc, nhất là những người đọc đã từng sống qua những ngày tháng không dễ gì quên được kể từ khi bộ đội miền Bắc cắm lá cờ chiến thắng trên nóc phủ tổng thống miền Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Tại sao lại phải “ để tang cho sách “ ? Vì “sách của ông tưởng sẽ sống đến ngàn năm đã bị bức tử một cách oan nghiệt.Khi người ta đội lên đầu những quyển sách của ông, có những quyển già như một ông tiên đầu bạc, có những quyển xinh tươi như những thiếu nữ trẻ trung, những chiếc mũ có tên là “nọc độc”, là “đồi trụy”, là “phản động” thì hơn ai hết ông hiểu đó là một lời tuyên án tử hình . “
Nhân vật người Ông của Khuất Đẩu đã chọn một giải pháp thật đẹp, đẹp hơn cả “ lý tưởng của người Cộng sản “ : “ông đã chọn cho mấy trăm cuốn sách một cái chết dũng cảm. Đó là chính ông tự mình đốt sách. Một quyết định cháy lòng.”
Ít nhất, nhân vật của Khuất Đẩu đã bảo tòan được “ khí tiết “ của sách qua cử chỉ dũng cảm của một viên tướng bại trận, tự sát chết trước khi để thân xác của mình lọt vào tay kẻ địch.
Trong thực tế, những gì đã xẩy ra ở những đô thị miền Nam sau khi người anh em cùng máu đỏ da vàng ở phía bên kia rầm rập tiến vào tay phất cao ngọn cờ của chủ nghĩa Mác-Lê bách chiến bách thắng ?
Đó là những ngày tháng tủi hổ nhất cho lịch sử Việt nam, khi hàng ngàn thanh niên sinh viên học sinh của bên thua trận bị chính quyền mới ra lệnh vào tận những nhà sách, nhà xuất bản, cả những kệ sách tư nhân, tịch thu tòan bộ sách báo, ấn phẩm, tất cả những gì được in ấn, phát hành ở miền Nam trước tháng 4 năm 1975 đem ra đốt.
Nhà văn Nguyễn Thụy Long, người chứng kiến tận mắt , đã kể lại :
Một cảnh đốt sách thật tang thương tháng 5 năm 1975 ở Sài Gòn |
Một ông lớn tuổi đầu hói mang kính cận dầy cộm chạy ra la giằng lại cuốn sách đóng bìa da to vĩ đại:
- Các cháu ơi cho bác xin, đây là quyển Bách Khoa Từ điển tiếng Tây. Không phải văn hóa đồi trụy.
Chú nhóc miệng còn hôi sữa giằng lại cuốn sách, ném luôn vào thùng phuy đang bốc lửa:
- Đốt hết, đốt hết, sách là đốt. Lệnh trên như vậy.
Ông già ôm mặt khóc bên lề đường. Tôi quay mặt nhìn đi chỗ khác, tôi biết ông cụ. Giáo sư đại học luật, Vũ Đăng Dung. Tiến sĩ luật công pháp quốc tế. Ông cụ ở đường bên cạnh nhà tôi, đường Đinh Công Tráng, con đường nổi tiếng bán bánh xèo. . . . “
( Nguyễn Thụy Long – Viết trên gác bút – Hồi Ký )
Ngọn lửa phần thư không chỉ cháy trên đất nước chúng ta những ngày tháng 4 năm 1975. Trước đó, nó đã bùng lên trên phố phường Hà Nội năm 1954 cũng dưới lá cờ của chủ nghĩa Mác-Lê bách chiến bách thắng :
“Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số ‘lớp Chín hậu phương’, năm sau sẽ sáp nhập thành ‘hệ mười năm’. Số học sinh ‘lớp Chín’ này vào lớp không phải để học, mà là ‘tổ chức Hiệu đoàn’, nhận ‘chỉ thị của Thành đoàn’ rồi ‘phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!’. Họ truy lùng… đốt sách!
Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn ‘kiểm tra’, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang ‘tập trung’ tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm ‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm’, và ‘phát biểu của bí thư Thành đoàn’: Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là… ‘cực kỳ phản động!’. Vào lớp học với những ‘phê bình, kiểm thảo… cảnh giác, lập trường”.
( Hồi Ký của một người Hà Nội- Nguyễn Văn Luận)
Lịch sử còn ghi chép và nguyền rủa cuộc “ phần thư khanh nho “ ( đốt sách chôn học trò ) của Tần Thủy Hòang xẩy ra từ năm 213 trước Công Nguyên.
Trong lịch sử thế giới cận đại, người ta vẫn chưa quên cuộc “ tàn sát văn học “ của nhà độc tài Hitler , một kẻ “chưa tốt nghiệp trung học, là kẻ ghét chữ. Ngay sau khi lên cầm quyền vào đầu năm 1933, tên trùm phát xít đã lập tức phát động một chiến dịch đốt sách rầm rộ trên toàn quốc: Kéo dài suốt từ 7/3/1933 ở Dresden cho đến 9/10/1933 ở Rendsburg, “lễ đốt sách” được tiến hành tại hơn 100 thành phố lớn nhỏ ở Đức với tất cả nghi thức “trọng thể”.Riêng tối 10/5/1933, đốt sách đồng loạt được thực hiện tại 22 trường đại họctổng hợp của Đức. Trong đó cuộc đốt sách ở ĐHTH Berlin có tới 70.000 tham gia, dưới sự giám sát trực tiếp của Bộ trưởng Tuyên truyền Joseph Goebbels, đã thiêu hủy hàng vạn cuốn sách.
Để thực hiện chiến dịch đốt sách,thuộc hạ của Goebbels lập ra các “Danh sách đen”, liệt kê các tác giả và tác phẩm“không mang tính Đức” cần thiêu hủy, trước hết đó là những tác giả theo chủ nghĩa Marx, người Do Thái, có tư tưởng hòa bình… “Danh sách đen” được lập ở các lĩnh vực như văn học (127 tác giả); lịch sử (51); nghệ thuật (13 tác giả và công trình nghiên cứu); chính trị và quốc học (125)… Ngoài ra còn có tôn giáo, triết học, sư phạm… Trong số này có 15 tác giả được yêu cầu cần đốt sạch, “không có ngoại lệ”, như nhà triết học Karl Marx và nhà lý luận Mác-xít Karl Kautsky; nhà văn Heinrich Mann, Erich Kaestner, Erich Maria Remarque; nhà tâm lý học Sigmund Freud, hay nhà báo Kurt Tucholsky… Thậm chí sách của nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng bị thiêu hủy,như nhà vật lý Albert Einstein. Dựa trên các danh mục này, những cuộc lục soát được tiến hành trên toàn quốc, trước hết là ở các thư viện, trường học, hiệu sách… để thu hồi và tập trung sách lại đốt trước công chúng. “
( trích : Tái sinh từ cuộc “ tàn sát văn học “ – Phan Đức – TT&VH )
Khi người ta có thể đốt sách được, thì việc đốt người ắt phải xẩy đến. Sự kiện hàng ngàn nhà tù ( trại cải tạo ) mọc lên như nấm sau mưa trên khắp đất nước những ngày ấy đã chứng minh cho điều này. Đó là những nơi sẽ chôn thây, sẽ hành hạ những thành phần ưu tú nhất của đất nước, những người góp phần làm cho những quyển sách “ tội phạm “ ra đời, tồn tại.
Quả là một sự phí phạm “ kinh thiên động địa “.
Nhân vật người Ông của Khuất Đẩu, qua sách vở, đã nhìn thấy trước những gì sẽ xẩy ra khi đất nước lọt vào tay người Cộng sản, và ông đã chọn cách hành xử của riêng mình.
Để tang cho sách đúng một trăm ngày, ông chết theo sách.
Để tang cho sách, là để tang cho người. Không chỉ một người (ông). Mà là cả một thế hệ và những mất mát không cách nào có thể lấy lại được. Từ những quyển sách , tài sản vô giá của đất nước nay hòan tòan tuyệt bản, cho đến những chấn thương trong lòng người chủ sở hữu, tác gỉa của quyển sách, đến nỗi ân hận dày vò trong tâm hồn những người thanh niên trẻ năm 1975 tham gia vào chiến dịch đốt sách độc ác, vì sợ hãi, vì ngây thơ không hiểu hết hậu quả việc làm của mình.
2.
Từ bấy đến nay, bao nhiêu nước đã chẩy dưới cầu, và lịch sử đã đi những bước ngọan mục. Ngọn cờ Mác-lê bách chiến bách thắng năm nào nay đã rũ nát trong những đống rác của lịch sử vì sự nguyền rủa của những nạn nhân, của chính những người đã từng bị lừa gạt hy sinh một đời dưới ngọn cờ độc ác ấy. Những tàn dư của nó phải thay tên đổi họ để tồn tại. Những người trẻ năm xưa trên đường phố Sài Gòn tay giương cao những biểu ngữ cổ vũ cho cuộc phần thư , nay đã già lão và tất nhiên cũng đã trưởng thành để hiểu rõ việc làm của mình ngày ấy. Họ chẳng phải là người có tội, chỉ chẳng may phải sống ở đất nước những ngày nhiễu nhương khốn khổ.
Từ những đống tro tàn , tưởng đã nguội lạnh sau ngần ấy năm, những quyển sách đã hồi sinh. Không một chế độ cầm quyền nào có thể dùng một nền văn hóa thấp mà thay thế cho nền văn hóa cao hơn, dù đó là chế độ độc tài Cộng sản. Vì thế, mặc cho kẻ chiến thắng đã từng ra mệnh lệnh phần thư vẫn còn ở ghế thống trị, những tác phẩm văn hóa văn học miền Nam đang chứng tỏ giá trị ưu thắng của mình bằng sự tái sinh mạnh mẽ. Trước hết, nhờ sự nuôi dưỡng của lòng dân. Từ những tủ sách tư nhân được che giấu bằng mọi phương cách, từ những mánh lới moi móc, tìm kiếm của người buôn sách cũ, rất nhiều những tác phẩm cũ đã được bảo tồn .* Và giờ đây, nhờ những phương tiện khoa học kỹ thuật, nhờ Internet, chúng đã có mặt trên tòan thế giới, kể cả Việt Nam, kể cả miền Bắc , hiện hữu trong mọi tủ sách gia đình, dưới dạng sách in hay ấn bản điện tử. Những cái tên tác giả miền Nam trước 1975, dù còn sống hay đã chết, đã trở nên quen thuộc với nhiều người đọc trẻ sinh sau cuộc chiến ở cả hai miền đất nước. Những nỗ lực tuyệt vọng của giới cầm quyền hòng bóp nghẹt sự tái sinh ấy vẫn không thể ngăn chặn nổi sức sống mãnh liệt của những giá trị văn hóa đích thực, những giá trị vượt hẳn lên trên mọi ý thức hệ chính trị nhất thời để trở thành kho tàng văn hóa của dân tộc.
Năm 2008, ở Đức, trung tâm Moses Mendelssohn thuộc trường đại học Postdam đã thành lập “ Thư Viện những quyển sách bị đốt “ nhằm sưu tập, in ấn , phát hành trên tòan nước Đức những tác phẩm văn hóa giá trị đã bị thiêu hủy bời chế độc Phát Xít Hitler năm 1933. Ngòai sự ủng hộ tài chánh của nhiều quỹ, nhiều cơ quan tư nhân, trung tâm Moses Mendelssohn còn nhận được sự tài trợ chính thức từ chính phủ Đức với ngân khỏan hơn hai triệu Euros.
“ Thư viện những quyển sách bị đốt “ sau cuộc phần thư năm 1954 ở miền Bắc, năm 1975 ở miền Nam, tuy không được chính thức thành lập và thực hiện, nhưng trong thực tế, nó đã tồn tại từ nhiều năm nay, và mỗi ngày đang trở nên lớn mạnh. Ngày nay, người đọc ở khắp nơi trên thế giới, kể cả ở Việt Nam, sẽ không khó khăn gì khi muốn sưu tập tòan bộ những tác phẩm của Tự Lực Văn Đòan, của những nhà văn tiền chiến ( dù nhiều tác giả sinh sống ở miền Bắc trước 1975 đã bị buộc phải chối bỏ chính tác phẩm của mình ), những tác phẩm giá trị và nổi bật của miền Nam trước 1975 phong phú ở mọi thể lọai, trường phái . . . Hàng trăm những thư viện sách cung cấp miễn phí cho người đọc hiện hữu trong thế giới ảo, đa dạng từ đầu sách , nội dung sách cho đến hình thức thể hiện sách để bất cứ người đọc nào với những phần mềm máy tính khác nhau, nếu muốn, cũng có thể mở ra đọc, hoặc đem về máy nhà cất giữ dành đọc khi thuận tiện.
Chưa bao giờ người thụ hưởng văn hóa lại được có cơ hội lựa chọn phong phú như hiện nay. Chưa bao giờ cuộc cạnh tranh giữa cái giá trị và không giá trị trong văn hóa lại sòng phẳng như hiện nay. Trong bối cảnh đó, sự tái sinh của văn hóa miền Nam, của những quyển sách nạn nhân của cuộc phần thư đầy xấu hổ năm nào trên đất nước chúng ta, là điều tất nhiên mà không một thế lực nào có thể ngăn cản hay làm chậm lại.
Và chúng ta đã có thể làm lễ mãn tang cho những tác giả của những tác phẩm bị đốt , nay chẳng may không còn sống để nhìn thấy những đứa con của mình sống lại. Tôi tin rằng linh hồn họ sẽ thanh thản siêu thóat .
3.
Dầu vậy, tôi vẫn không quên những hũ tro sách của nhân vật người Ông trong “ Để tang cho sách “ của Khuất Đẩu. Tôi cho rằng, nếu nhân vật người Ông sống tới ngày hôm nay, được chứng kiến sự hồi sinh của những quyển sách mà ông nâng niu như máu thịt, thì hẳn ông cũng vẫn chưa hài lòng trọn vẹn. Bởi vì, những quyển sách phải cụ thể là những trang giấy thơm mùi mực, hay thơm mùi cũ kỹ của thời gian, phải sờ được, phải cầm được, phải được trân trọng khẽ khàng xếp chúng vào tủ để ngày ngày ra vô nhìn ngắm, chiêm ngưỡng. Có thế mới thực sự là sách. Có thế thì kẻ hậu sinh vài chục năm sau, vài trăm năm sau, cầm tới quyển sách ố vàng vì thời gian, những mép trang đã quăn lại, biến màu vì dấu tay tiền nhân, mới cảm nhận được trọn vẹn giá trị gia tài quý báu mình đang thừa hưởng.
Có thế, sách mới thực sự như người.
Còn như, những trang sách điện tử . . .
Vì thế, hồn sách vẫn còn trong những hũ tro với bài vị là tờ giấy ghi tên sách trong ngăn tủ mà 30 năm sau vẫn còn được nhang khói mỗi khi giỗ chạp.
Hồn người (ông ) thì có thể siêu thóat, nhưng hồn sách có lẽ vẫn mãi còn “ lãng đãng “ quấn quýt. Cho đến ngày những kẻ ra bản án tử hình sách năm nào đền tội nơi chín tầng địa ngục của Diêm Vương.
T.Vấn
28 tháng 10 năm 2011
Chú thích :
Trong những lần về thăm nhà, tôi để dành rất nhiều thời gian đi dạo những khu sách cũ của Sài Gòn. Mỗi lần như vậy, tôi đều tìm được một quyển sách cũ nào đó trước 1975. Khi thì một tác phẩm của Phạm Công Thiện long bìa, thiếu trang, khi thì những tờ báo vàng ố, lấm lem màu mực xanh học trò, có khi lại là một quyển sách đóng bìa da trang trọng với dấu tích thuộc về một tủ sách tư nhân mà người chủ phải là một kẻ mê sách và yêu sách như nhân vật của nhà văn Khuất Đẩu. Mặc dù, có quyển sách tôi đã từng được đọc lại nội dung, đã có mặt trong tủ sách “ điện tử “ mà tôi sưu tập , nhưng cảm giác lúc đó là tôi muốn “ làm chủ “ quyển sách cũ ấy với đầy đủ những dấu vết thời gian , vì nó là hiện thân của chính tôi, của sự sống sót sau một cuộc đảo điên của lịch sử. Người bán sách cũ , mang bản năng bẩm sinh của kẻ sinh ra để làm thương mại, đã căn cứ vào vẻ mặt của tôi vào lúc ấy để ra giá quyển sách. Tất nhiên, có đắt cách mấy cũng không ngăn được tôi thỏa mãn ý muốn của mình.
Nhưng kỷ niệm về sách báo cũ của tôi đáng nhớ nhất là lần mới đây về thăm nhà. Anh bạn nhạc sĩ Trần Lê Việt của tôi, có mấy người em gái vẫn còn sinh sống ở Sài Gòn. Họ đã đọc bài viết “ Sài Gòn và những trang sách cũ “ của tôi nói đến cuộc viếng thăm khu bán sách cũ của lần về VN trước đây nhiều năm. Khi tôi ghé thăm với tư cách một người bạn lâu năm của gia đình, mấy chị em đã bàn nhau và quyết định “ gởi biếu “ tôi gần 100 số báo Tuổi Ngọc mà họ đã tích lũy từ thuở còn làm học trò mắt sáng môi tươi. Đây là tài sản quý giá , chứng nhân của một thời tuổi trẻ đẹp đẽ, mấy chị em đã tìm đủ mọi cách cất giấu , nhất là trong những ngày tháng 5 năm 1975 của chiến dịch bài trừ, thiêu hủy sách báo “ phản động, đồi trụy “ mà nhà cầm quyền mới phát động. Đó là một việc làm vô cùng nguy hiểm, vì bản thân họ lúc ấy là sinh viên , học sinh, đã không chịu tham gia tích cực vào chiến dịch do phường khóm điều động, lại còn tìm cách cất giấu , bao che cho “ kẻ phạm pháp “. Ngần ấy năm, những tờ báo Tuổi Ngọc “ vô tội “ đã sống sót qua cuộc phần thư, trú ngụ an tòan dưới mái nhà những nữ chủ nhân đáng yêu. Và nay, những nữ chủ nhân ấy muốn chúng được vĩnh viễn “ an tòan “ nơi miền đất tự do, trong bàn tay chăm sóc của kẻ mà họ đã “ chọn mặt gởi vàng “.
Tôi đem tài sản quý giá một đời ấy của mấy cô em gái người bạn qua bên Mỹ với sự trân trọng của một người biết mình đang mang trong mình trọng trách bảo tòan những kỷ niệm không chỉ của mấy chị em, mà còn là của cả một thế hệ thanh niên nam nữ Việt Nam may mắn được sống trọn vẹn những ngây thơ lãng mạn của tuổi trẻ, chứ không phải bị nhồi nhét những thứ ý thức hệ giai cấp chỉ biết đến thù hận như những người bạn cùng trang lứa, cùng là người Việt Nam máu đỏ da vàng, nhưng chẳng may sinh ra và lớn lên ở miền Bắc .
Tôi dùng những dòng ghi chú này như một lời cám ơn chính thức gởi đến những cô em gái người bạn , những nữ chủ nhân đáng yêu của hàng trăm số báo Tuổi Ngọc quý gía, mà mỗi lần ngồi lần giở chúng, tôi như được sống lại khỏang đời đẹp đẽ ấy thêm một lần nữa, nhiều lần nữa. T.Vấn.
Nhân đây, tôi cũng muốn trang trọng giới thiệu trang Blog của người rất trẻ tuổi hiện sinh sống ở Việt Nam. Anh có một đam mê bỏng cháy là đi tìm lại những tác phẩm xuất bản trước 1975 ở miền Nam, dù thời gian ấy, anh chưa ra đời. Tất cả những gì anh tìm thấy, đều được anh chia sẻ với tất cả mọi ngưởi trên trang Blog bằng những ảnh chụp, hoặc phóng ảnh, kể cả việc anh chịu khó đánh máy lại nội dung để đưa lên mạng và kèm theo những nhận xét rất thông minh và đáng yêu. Khi tôi hỏi động cơ nào khiến cháu bỏ công sức làm công việc này, anh trả lời vì cháu không muốn những di sản văn hóa của đất nước bị mai một. Và đây là địa chỉ trang Blog của Nguyễn Trường Trung Huy : http://huyvespa.multiply.com/journal
Dưới đây là vài hình ảnh tôi bắt gặp trên Blog của Trung Huy :
©T.Vấn 2011
Thứ Năm, 27 tháng 10, 2011
Những Lời Dạy Thực Tiển Của Đức Dalai Lama.
Pháp ngữ: “108 perles de sagesse du Dalai-Lamapour parvenir à la sérénité” Nhà xuất bản:Presse de la Renaissance, Paris 2006. Do nữ ký giả Phật tử Cathérine Barry tuyển chọn Chuyển ngữ Pháp-Việt :Hoang Phong
1-
Khi cảm thấy hoang mang, mất tự tin, hãy nghĩ ngay đến tiềm năng tuyệt vời được sinh làm thân con người, tấm thân ấy chỉ ước mong được nẩy nở.
Vì thế, hãy nhìn vào kho tàng quý giá đó đang được cất giữ trong ta để tìm lấy nguồn hạnh phúc: Hân hoan là một sức mạnh, hãy khơi động và chăm lo cho xúc cảm ấy.
2-
Những gì cốt yếu có thể đem đến hạnh phúc chính là biết: Hài lòng với những gì đang là chính mình trong những giây phút hiện tại. Sự hoan hỷ nội tâm sẽ biến cải cảm quan của ta khi phóng nhìn vào vạn vật chung quanh, và ta sẽ tìm được sự anh bình cho tâm thức.
3-
Khi có kẻ nào làm ta tổn thương, đừng do dự một chút nào cả, Hãy tha thứ cho họ. Vì khi biết nghĩ đến những gì đang kích động họ và đưa họ đến những hành vi ấy, ta sẽ hiểu chính đấy là những khổ đau mà họ đang phải gánh chịu, không phải họ quyết tâm và cố tình làm ta thương tổn và gây thiệt hại cho ta. Tha thứ là một một phương cách xử sự tích cực dựa vào sự suy nghĩ, không phải là một hành động bỏ qua. Tha thứ là một hành động ý thức, căn cứ trên sự hiểu biết và chấp nhận hiện trạng thực tế của những cảnh huống xảy ra cho ta.
4-
Hãy bố thí cho kẻ khác, không mong đợi sự hồi đáp và cũng không tính toán gì hết; Bố thí để tìm lấy sự sung sướng và để yêu thương, chính đấy là cách tạo ra những phúc hạnh lớn lao nhất. Đạo đức chính là những gì căn cứ trên lòng quyết tâm giúp đỡ kẻ khác. Điều duy nhất có khả năng gom tất cả chúng sinh có giác cảm lại gần với nhau chính là Tình thương.
5-
Hãy cám ơn kẻ thù của ta, họ là những vị thầy lớn nhất cho ta. Họ tập ta đương đầu với khổ đau và giúp ta phát huy sự nhẫn nhục, lòng rộng lượng và từ bi, nhưng không chờ đợi bất cứ một sự hồi đáp nào.
6-
Những trang sức đẹp nhất mà ta có sẳn chính là: Tình thương và lòng từ bi. Nếu ta tìm hiểu những điều kiện nào có thể giúp ta đạt được hạnh phúc và tạo được an vui, ta sẽ nhận thấy những điều kiện ấy nằm trong khả năng con người và sự vận hành của tâm thức, và ta hoàn toàn có đủ khả năng để tạo ra những điều kiện ấy.
7-
Không thể thực hiện sự giải trừ vũ khí bên ngoài, nếu không có sự giải trừ vũ khí trong nội tâm. Bạo lực làm phát sinh bạo lực. Chỉ có an bình trong tâm thức mới có thể tạo ra một sự sống trong sáng, không hàm chứa những xung năng đối nghịch. Sự giải binh toàn cầu là một trong những giấc mơ tha thiết nhất của tôi. Chỉ là một giấc mơ thôi...
8-
Khổ đau tinh thần và tình cảm ta đang gánh chịu chính là người hướng dẫn vạch cho ta thấy thái độ của ta đúng hay sai. Tìm thấy ý nghĩa cho cuộc sống mà ta đang sống có thể làm nhẹ bớt hoặc vượt hẳn lên trên những khổ đau mà ta đang phải chịu đựng, điều ấy có nghĩa là ta cần phải biến cải sự vận hành của chính tâm thức ta.
9-
Hãy biết: Hân hoan với hạnh phúc của kẻ khác, vì mỗi một dịp may như thế đồng thời cũng là một phút giây vui sướng cho riêng ta. Hãy hân hoan khi ta được hạnh phúc, bởi vì yêu thương kẻ khác khó có thể thực hiện được nếu ta quên yêu thương lấy chính ta, và sự hân hoan đó sẽ giúp ta tin tưởng và vững tâm hơn. Tùy vào cách cảm nhận trước những cảnh huống xảy ra trong sự hiện hữu, mà các thể dạng như trung hòa, hạnh phúc hay khổ đau sẽ phát sinh trong cuộc sống của chính mình.
10-
Yêu thương và từ bi sẽ xoá bỏ mọi sợ hãi khi phải sống, Vì khi nào những xúc cảm tich cực ấy hiển lộ trong ta, sự vững tin sẽ hiển hiện trong nội tâm và sự sợ hãi sẽ tan biến. Chính tâm thức ta tạo ra cái thế giới mà ta đang sống.
11-
Tập khắc phục tâm thức; chẳng những sẽ giúp ta sống trong an bình với chính ta mà đối với kẻ khác nữa, điều ấy cũng giúp ta tìm thấy sự hoan hỷ cho nội tâm trong bất cứ trạng huống nào mà ta vấp phải. Không có một điều gì hay bất cứ ai có thể làm cho một người khác cảm thấy bất hạnh, nếu người này có một tâm thức tinh khiết đã loại bỏ được những xúc cảm phát sinh từ những xung năng đối nghịch.
12-
Chúng ta không thể nào tìm thấy hạnh phúc nếu chỉ biết ham thích ảo giác và không nhìn thẳng vào hiện thực. Hiện thực không tốt đẹp cũng chẳng xấu xa. Vạn vật là như thế, không thể nào bắt buộc chúng phải hiển hiện đúng với ý muốn của riêng ta. Thấu hiểu và chấp nhận điều ấy chính là một trong những chìa khóa của hạnh phúc.
13-
Phật giáo giảng rằng: Giây phút trước khi chết thật hệ trọng, bởi vì những giây phút đó là dịp may cuối cùng giúp ta hiện hữu trong giai đoạn trung ấm (bardo) – tức thế giới chuyển tiếp giữa cái chết và sự tái sinh – xảy ra sau khi đã trút hơi thở cuối cùng. Để có thể sống với một tâm thức an bình trong những giây phút cuối cùng phải chuẩn bị suốt một cuộc đời tu tập, và trong những giây phút ấy cần phải tập trung tâm thức hướng vào những xúc cảm nhân từ thật sâu xa, hoặc hướng vào mối giây tình cảm buộc chặt thầy và môn đệ, hoặc hướng vào Tánh không và Vô thường, làm được như thế ta sẽ tái sinh trong một hoàn cảnh tốt đẹp. Những giây phút trước khi lâm chung thật quan trọng vì đó là lúc ta nắm giữ trong tay phần số của ta trong kiếp tái sinh.
Khi đã hiểu được cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào sẽ giúp ta sống trọn vẹn trong giây phút hiện tại và nằm xuống trong an bình.
14-
Giận dữ và hận thù cần có một đối tượng để bộc phát, giống như lửa cần có củi khô để cháy. Khi phải đối đầu với những hoàn cảnh hận thù, chẳng hạn có kẻ muốn khiêu khích hay tìm cách ám hại, ta hãy dùng sức mạnh của nhẫn nhục để chận đứng ngay sự chi phối của những xúc cảm tiêu cực có thể xảy ra. Nhẫn nhục phát sinh từ khả năng chịu đựng, đừng để bất cứ gì làm cho ta dao động, dù trong tình huống nào cũng thế. Nếu biết dựa vào nhẫn nhục, sẽ không có một kẻ nào đủ sức khuấy động được tâm thức ta.
15-
Hãy tổ chức sự sống của ta nhắm vào những gì: hàm chứa một giá trị đích thực có thể đem đến một ý nghĩa cho sự sống của ta, nhưng không nên hướng vào lạc thú và cuộc sống phù phiếm, cuốc sống ấy chỉ đẩy ta xa thêm, ra bên ngoài sự sống của chính ta. Hãy xây dựng một cuộc sống dựa vào một trách nhiệm quan trong nhất, đó là trách nhiệm mà ta phải phục vụ kẻ khác.
16-
Không có một hành vi đạo hạnh nào gọi là nhỏ hay lớn, bởi vì mỗi hành vi đạo hạnh đều góp phần vào sự xây dựng hoà bình trên thế giới này. Điều đáng kể duy nhất là hiến dâng tất cả cho kẻ khác và lấy đó làm niềm hạnh phúc. Phẩm tính lớn nhất của khả năng con người là lòng vị tha.
17-
Đừng đánh mất thì giờ vì ganh tị và cải vả. Hãy suy tư về vô thường để ý thức được giá trị của sự sống. Nếu muốn thực hiện an bình trong tâm thức và trong tim, cần phải thay đổi những thói quen suy nghĩ có sẵn trong đầu. Nếu không muốn hóa điên vào lúc bắt buộc phải rời bỏ thế giới này, thì ta phải tu tập ngay từ bây giờ để hiểu rằng:
Không nên bám víu vào mọi sự vật và đừng mơ tưởng đó là những thứ mà rồi đây ta có thể mang theo khi chết.
18-
Đừng bỏ mặc tấm thân này, cũng đừng quan tâm đến nó một cách quá đáng, nhưng phải kính trọng nó và chăm sóc cho nó như một thứ dụng cụ quý giá và cần thiết có thể góp phần giúp cho tâm thức đạt được Giác ngộ.
19-
Hành vi mà ta thực thi phản ảnh từ tư duy và xúc cảm của chính ta. Tự nơi chúng, những hành vi ấy không mang tích cách tích cực hay tiêu cực, tích cực hay tiêu cực tùy thuộc vào những ý đồ tiềm ẩn đã thúc đẩy ta. Ý đồ sẽ giữ vai trò quyết định cho nghiệp, tức quy luật về nguyên nhân và hậu quả, nghiệp sẽ tạo ra cho ta một cuộc sống và trong cuộc sống ấy ta sẽ có cảm giác như là đang hạnh phúc hay đang khổ đau.
20-
Bố thí trước hết phải tập thế nào để đừng va chạm đến tự ái và làm tổn thương kẻ khác. Làm được như thế có nghĩa là tránh không làm hại đến chính ta, vì làm tổn thương kẻ khác chính là tự làm tổn thương đến ta trước đã.
21-
Không thể nào nắm bắt được hiện tại. Không có gì tồn tại trong thế giới này, không có gì tự nơi chúng có thể hiện hữu được. Vậy thì, cố gắng nắm bắt và chiếm giữ những đối tượng của các giác quan mà ta cảm nhận được trong hiện tại để làm gì? Chúng không mang một thực thể nào cả. Chúng chỉ là hậu quả của trùng trùng điệp điệp những nguyên nhân và điều kiện khác đã tác tạo ra chúng. Chúng không sinh ra để tồn tại bởi vì chúng biến đổi từng giây phút một. Do đó, chớ nắm bắt gì cả.
22-
Tham vọng không kềm giữ được sẽ biến tâm thức con người thành nô lệ và sẽ không bao giờ để cho tâm thức được yên, khi nào ham muốn lạc thú vẫn còn thúc đẩy tâm thức để tạo ra vô số cảnh huống khác nhau trong mục đích giúp thoả mãn những tham vọng trong sinh hoạt hằng ngày, thì khi đó tâm thức vẫn còn nô lệ và bất an. Tham vọng khi đã được kềm chế và khắc phục sẽ giải thoát con người ra khỏi mọi hoàn cảnh, dù là hoàn cảnh hạnh phúc hay khổ đau cũng thế, và sẽ đem đến an bình trong tim và trong tâm thức.
23-
Trau dồi nhẫn nhục là tập phát huy lòng từ bi hướng vào những kẻ đã đem đến thương tổn cho ta, nhưng không phải vì thế mà chấp nhận cho họ tàn phá ta. Lòng từ bi là vị lương y tốt nhất để chữa chạy cho tâm thức. Từ bi sẽ giải thoát cho ta trước những bám víu và những xung năng đối nghịch.
24-
Chỉ vì vô minh và thiếu nhận xét minh bạch, nên ta tiếp tục tạo ra những điều bất hạnh cho chính ta. Tâm thức luôn luôn bị giằng co giữa những gì ta ưa thích và ghét bỏ. Ta hành động giống như có thể lẩn tránh được những cảnh huống đang hiện ra với ta. Ta quên mất là tất cả không có gì tồn tại và tự nó hiện hữu. Ta cũng quên là ta có thể chết bất cứ lúc nào.
25-
Bám víu vào những đối tượng của giác cảm sẽ làm cho tâm thức thèm thuồng và bịnh hoạn. Tom góp được nhiều của cải không có nghĩa là làm cho tâm thức được an bình một cách tương xứng. Hãy nhìn vào những kẻ có đầy đủ tiện nghi vật chất, họ có thể tự cung phụng cho đến hết cuộc đời, nhưng họ vẫn sống trong buồn bực, lo âu, bất toại nguyện và khép kín. Họ không hiểu rằng hiến dâng sẽ đem đến niềm hân hoan to lớn nhất. Họ không thể hiểu được là không cần phải có thật nhiều của cải mới đủ sức hiến dâng một nụ cười để giúp cho kẻ khác được sung sướng. Những điều kiện vật chất của họ thật đầy đủ, nhưng không đem đến cho họ một mảy may hạnh phúc, vì chưng chỉ có một thứ duy nhất có thể cải thiện được cuộc sống nội tâm trong bất cứ hoàn cảnh vật chất nào, ấy chính là sự tu sửa tâm linh.
26-
Tôi ước nguyện sẽ xử dụng không dám phí phạm một giây phút nào trong sự hiện hữu của tôi để góp phần vào việc giải thoát chúng sinh khỏi khổ đau và những nguyên nhân gây ra khổ đau và giúp chúng sinh tìm thấy hạnh phúc cũng như nhìn thấy những nguyên nhân nào sẽ đem đến hạnh phúc. Tôi xin phát nguyện để ghi nhớ rằng phát lộ lòng từ bi đối với chúng sinh khởi sự bằng từ bi đối với chính mình, nhưng không hàm chứa một chút bóng dáng nào của sự ích kỷ, vì mỗi người trong chúng ta đều là thành phần của cộng đồng chúng sinh.
27-
Phương pháp thiền định phân tích đem đến sự vững tin giúp ta biến cải tâm thức. Sự biến cải đó đòi hỏi nhiều thời gian, và cách tập luyện cũng rất gần với các phương pháp khoa học. Những xúc cảm làm đảo điên và kích động ta là những đối tượng giúp cho cho ta quan sát, để từ đó chọn lấy những liều thuốc hóa giải hiệu nghiệm nhất khả dĩ giúp đạt được mục đích mong muốn, tức giải thoát ta ra khỏi ảnh hưởng của những xúc cảm bấn loạn để đạt được Giác ngộ. Nên ghi nhớ rằng hai thể dạng xung khắc nhau không thể nào hội nhập chung với nhau cùng một lúc trong tâm thức. Vì thế, thí dụ nếu ta đang nổi giận với một người nào đó, hãy nghĩ ngay đến việc phát lộ tình thương đối với người ấy. Nếu ta phát lộ được yêu thương, giận dữ sẽ biến mất trong tâm thức. Tình thương là liều thuốc hoá giải sự giận dữ.
28-
Tất cả đều mang tính cách vô thường, nhờ đó ta có thể biến cải được tâm thức và những xúc cảm bấn loạn làm dấy động tâm thức. Chẳng hạn như hận thù hay giận dữ, chúng phải tùy thuộc vào bối cảnh để hiển hiện. Tự nơi chúng, chúng không phải là những hiện thực, chúng không hiện hữu một cách thường xuyên trong tâm thức ta, vì thế ta có thể khắc phục, biến cải và loại trừ chúng được. Để giúp thực hiện việc ấy, cần nhất là phải tái tạo chúng trong bối cảnh mà chúng đã phát sinh, phân tích bối cảnh nào đã làm cho chúng bộc phát và tìm hiểu nguyên do của sự bộc phát ấy. Thực hiện được một thể dạng phúc hạnh lâu bền có nghĩa là loại trừ ra khỏi tâm thức những xúc cảm tiêu cực.
29-
Khổ đau không phải phi lý nhưng cũng không phải vô ích, chẳng qua chỉ vì nghiệp mà chúng phát sinh, nghiệp ở đây có nghĩa là quy luật nguyên nhân và hậu quả chi phối chu kỳ của mọi hiện hữu. Chu kỳ hiện hữu có thể sẽ khó hiểu nếu không tin vào hiện tượng tái sinh. Tư tưởng và hành vi của ta trong nhiều kiếp sống liên tiếp từ trước sẽ tạo ra hậu quả tích cực hay tiêu cực tùy theo ý đồ thúc đẩy làm phát sinh ra tư tưởng và hành vi. Nguyên tắc ấy cũng xảy ra chung cho cả một dân tộc hay một quốc gia. Những gì xảy ra cho dân tộc Tây tạng là hậu quả của nghiệp. Nhưng điều ấy cũng không cấm cản đi tìm một giải pháp làm thế nào để nhân quyền ở Tây tạng được tôn trọng, kể cả nền văn hóa ngàn năm, tư tưởng triết học và tôn giáo đặc thù của nền văn minh chúng tôi. Không nên hiểu lầm nghiệp với định mệnh, nhưng phải rút tỉa kinh nghiệm từ những bài học mà ta gặp phải trong sự sống để hành động trong chiều hướng tích cực và ý thức.
30-
Làm thế nào để có thể phát triển hoà bình trên thế giới nếu chúng ta không biết kính trọng thiên nhiên? Từ con người đến muôn thú, tất cả đều liên kết với nhau trong một ước vọng chung có tính cách phổ quát, tức lẩn tránh khổ đau và tạo được những điều kiện thuân lợi đem đến an lành và bình an cho sự sống. Thật hết sức quan trọng phải luôn luôn tự nhắc nhở về điều ấy, vì lẽ lẩn tránh khổ đau là quyền căn bản của mọi chúng sinh có giác cảm. Để giúp cho mọi người biết tôn trọng cái quyền căn bản đó, chính chúng ta phải làm gương cho kẻ khác trước đã.
Đức Dalai Lama.
( Nguồn : post ở phan dau bai`)
Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2011
Việt Nam Chính Thức Lệ Thuộc Nước Tầu Lần Thứ 7
Việt Nam Chính Thức Lệ Thuộc Nước Tầu Lần Thứ 7 (4)
Hội Nghiên Cứu Sử Học Việt Nam tại Âu Châu
Vietnamese historical Researcher Association in Europe (Danh xưng cũ là Nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử Việt Nam và Tinh Thần Trúc Lâm Yên Tử tại Âu Châu) Địa chỉ thông tin: website http://www.truclamyentu.info/; http://www.quansuvn.info/ Email: truclamyentu@truclamyentu.info; quansuvn@quansuvn.info
Việt Nam Chính Thức Lệ Thuộc Nước Tầu Lần Thứ 7
ĐỪNG IM TIẾNG MÀ PHẢI LÊN TIẾNG !
XIN ĐỪNG VÔ CẢM TRƯỚC VẬN NƯỚC NGỬA NGHIÊNG !
Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc
Việt Nam đã và đang Chính Thức Lệ Thuộc Nước Tầu Lần Thứ 7 theo lời báo động của Linh mục Tù nhân Lưong Tâm Nguyễn Văn Lý trong Lời Cảm Ơn và Mời Gọi Lần Thứ 45.
Thực tế, sự kiện này đã được chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước (từ khi đảng Cộng sản Việt Nam thành lập vào ngày 03/02/1930). Nhưng Hồ chí Minh, Bộ chính trị cũng như đảng Cộng sản Việt Nam đã khéo léo che đậy để lường gạt người dân cũng như những thành phần đảng viên Cộng sản khác không chấp nhận nội thuộc nước Tầu.
Tuy nhiên dù cho khéo léo che đậy cách mấy, âm mưu đồng hóa, sáp nhập Việt Nam vào nước Tàu đã bị nhiều tổ chức, cá nhân người Việt Nam tố cáo trước dư luận. Trong số này, Hội Nghiên Cứu Sử Học Việt Nam tại Âu Châu đã phổ biến Lời kêu gọi Vận Nước Ý Dân Nam Quốc Sơn Hà (ngày 01/09/2010) tẩy chay quốc khánh Trung cộng ngày 01/10/2011 dưới tiêu đề mừng lễ lớn kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long.
Hình ảnh bên dưới trong một lễ hội ẩm thực ở Vũng Tàu có treo cờ Trung Cộng với một ngôi sao lớn và năm ngôi sao nhỏ bao quanh.
Cờ Tầu cộng ở lễ hội ẩm thực thế giới 2010 Vũng Tàu có thêm 1 ngôi sao. Ngôi sao lớn ở góc trái tượng trưng cho Hán tộc, 5 ngôi sao bao quanh là Hồi tộc, Mãn tộc, Tạng Tộc, Mông tộc và cuối cùng là...Việt cộng.
Nước Việt Nam đã thực sự lệ thuộc nước Tầu (cộng sản) lần thứ 7 qua buổi ký kết Thỏa Hiệp Việt Trung Liên Quan Đến Biển Đông Ngày 11/10/2011 tại Bắc Kinh với sự hiện diện của ông Nguyễn phú Trọng, Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam; Ông Hồ cẩm Đào, chủ tịch nước Trung cộng cùng đoàn tùy tùng của hai bên.
Trong Tuyên Cáo Phản Đối Thỏa Hiệp Việt Trung Liên Quan Đến Biển Đông Ngày 11/10/2011 tại Bắc Kinh của Hội Nghiên Cứu Sử Học Việt Nam tại Âu Châu phổ biến ngày 13/10/2011, chúng tôi khẳng định chính Đảng Cộng sản Việt Nam là thủ phạm tiếp tay với đảng Cộng sản Tàu tiêu diệt dân tộc Việt Nam qua các cuộc chiến tranh Đông dương lần thứ I (1946-1954); chiến tranh Đông dương lần thứ II (1954-1975); Cải cách ruộng đất 1956 ở miền Bắc; Vượt biên vượt biển cuối thập niên 70 đầu thập niên 80; cải tạo tư sản ở miền Nam, chiến dịch tịch thu văn hóa phẩm của Miền; thanh trừng, bắt tù, thủ tiêu hàng trăm ngàn quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa Nam sau ngày 30/04/1975; Cộng sản Việt Nam còn tiến hành thảm sát 3157 đồng bào làng Ba Chúc tỉnh An Giang đêm 18/04/1978 để có cớ tiến hành chiến tranh xâm chiếm Cao Miên v.v...
Đồng thời để tiến trình đồng hóa này được nhanh chóng hoàn thành, đầu thập niên 90, Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười (lãnh đạo quá cố của đảng CSVN) đã gặp các lãnh đạo Cộng sản Tầu ở Trung Nam Hải để chính thức xin được sáp nhập Việt Nam vào nước Trung cộng. Thời hạn sáp nhập được ấn định là 20 năm theo tiết lộ của Wikileaks.
Do đó, đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo mọi điều kiện dễ dàng cho dân Tầu vào Việt Nam không cần hộ chiếu, họ còn mở cửa cho quân Trung cộng vào khai thác Bauxit ở Tây Nguyên và gọi là "chủ trương lớn của đảng" theo lời của ông Nguyễn tấn Dũng đương kim thủ tướng. Do đó, quân Tàu đã được bố trí bí mật khắp trên lãnh thổ Việt Nam dưới hình thức công nhân của các công trình đầu tư do Tư bản đỏ Tầu trực tiếp quản lý (quân số của đạo quân Tầu trá hình này đã lên đến 1 triệu 300 ngàn người), CSVN còn cho thuê rừng đầu nguồn ở 10 tỉnh; Họ không phản ứng trước hành vi cướp bóc, bắn giết, đánh đập, đòi tiền chuộc mạng ngư phủ Việt Nam của hải tặc Trung cộng. Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam còn bắt bớ, đánh đập, đàn áp các cuộc biểu tình chống Trung cộng trong nước.
Chúng ta không thể nào quên được những người từng bị bắt, kết án tù lâu năm đều có hành động quả cảm chống quân xâm lăng Trung cộng như Tiến sĩ Luật sư Cù Huy Hà Vũ, nhà báo Điếu cày Nguyễn Văn Hải, cô Phạm Thanh Nghiêm, ông Vi Đức Hồi, Linh mục tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Lý v.v...
Hình trên: buổi lễ ký kết chính thức sáp nhập Việt Nam (dưới tiêu đề Thỏa Hiệp Việt Trung Liên Quan Đến Biển Đông) vào nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa ngày 11/10/2011 tại Bắc Kinh. Nguồn: Internet
Mới đây trong chương trình truyền hình lúc 19 giờ ngày 14/10/2011, đài VTV đã phổ biến bản tin với hình ảnh tương tự như lá cờ trong lễ hội ẩm thực ở Vũng Tàu năm 2010. Hình ảnh này được phổ biến sau tuyên bố của ông Nguyễn Phú Trọng : "Khẳng định tình hữu nghị đời đời Việt - Trung là tài sản quý báu chung của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, cần được không ngừng củng cố, phát triển, truyền mãi cho các thế hệ mai sau"
Tình hữu nghị đời đời Việt Trung, theo ông Nguyễn phú Trọng chính là sự sáp nhập Việt Nam trở thành nội thuộc nước Tầu kể từ ngày 11/10/2011.
Hình cờ Trung cộng có 1 ngôi sao lớn và năm ngôi sao nhỏ (phát ngày 14/10/2011)
Hình trên: lá cờ Trung cộng trước ngày 14/10/2011
Hình kế tiếp, từ trái phát hành trước ngày 14/10/2011, cờ Trung cộng chỉ có 1 ngôi sao lớn và 4 ngôi sao nhỏ; qua phải hình cờ Trung cộng có thêm 1 ngôi sao nhỏ, vị chi là 5 ngôi sao bao quanh ngôi sao lớn.
Sự xuất hiện này không phải là ngẫu nhiên, tùy hứng. Mà đây chính là sự xác nhận một cách chính thức vào lúc 19 giờ ngày 14/10/2011, nước Việt Nam đã là một thành viên của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.
Hội Nghiên Cứu Sử Học Việt Nam tại Âu Châu khẩn thiết tất cả người Việt Nam yêu nước thương dân ở trong và ngoài nước hãy nhanh chóng có thái độ cần thiết bằng nhiều hình thức phản đối sự nội thuộc này, càng sớm càng tốt, càng nhiều càng hay để khẳng định dân tộc Việt Nam không bao giờ chấp nhận làm nô lệ, nội thuộc cho Tầu.
Hãy đồng loạt xuống đường biểu tình phản đối; hãy bày tỏ lòng yêu nước trên các trang nhật ký điện tử; hãy dán truyền đơn, biểu ngữ phản đối nội thuộc Tầu ở khắp nơi trong nước; hãy quyết liệt đấu tranh bằng nhiều hình thức khác nhau trước khi quá muộn.
Quý vị tướng lãnh, sĩ quan, binh sĩ quân đội cũng như công an chế độ Cộng sản Việt Nam hãy mau mau thức tỉnh, cầm súng chiến đấu bảo vệ đất nước, dân tộc, từ chối bảo vệ cho tập đoàn tay sai cho Tầu, đứng đầu là Nguyễn phú Trọng...Hãy hành xử đúng lương tâm của một người Việt Nam để cứu nước cứu dân.
Chúng tôi khẩn thiết kêu gọi các tổ chức chính trị, đoàn thể, cộng đồng, tôn giáo người Việt ở trong và ngoài nước, nhanh chóng ngồi lại, liên kết với nhau, gạt qua những dị biệt để cùng nhau cứu nước cứu dân. Tình thế hết sức nguy hiểm đang chờ đợi dân tộc chúng ta ở phía trước, nếu không hành động nhanh chóng và kịp thời.
Hãy báo động âm mưu hán hóa, nguy cơ chiến tranh qua hành động ký kết giữa Việt cộng và Tầu cộng ngày 11/10/2011 ở Bắc Kinh cho cộng đồng quốc tế được biết để họ đề phòng và có phản ứng thích nghi.
Đừng chờ đợi hãy hành động trước khi quá muộn.
ĐỪNG IM TIẾNG MÀ PHẢI LÊN TIẾNG !
XIN ĐỪNG VÔ CẢM TRƯỚC VẬN NƯỚC NGỬA NGHIÊNG !
Âu châu ngày 17/10/2011
Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc (Tổng thư ký Hội Nghiên Cứu Sử Học Việt Nam tại Âu Châu)
Thứ Sáu, 21 tháng 10, 2011
Việt Nam gấp rút tăng cường quốc phòng
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2011-10-20
Việt Nam thể hiện rõ ý định tăng cường khả năng quốc phòng với việc đàm phán mua 4 tàu hộ tống lớp Sigma của Hà Lan.Hiện đại hóa Hải Quân
Source Wikipedia/marine photo |
Trong cuộc phỏng vấn của Nam Nguyên, đại tá Trần Liêm nguyên phó tư lệnh quân chủng phòng không không quân nhận định về việc Việt Nam thực hiện nhiều đơn hàng mua chiến cụ tối tân
Tăng cường ra biển không chỉ đơn thuần về kinh tế mà tất nhiên phải bảo vệ vùng biển nữa. Cho nên vừa rồi chủ trương chung là xây dựng lực lương hải quân phải tăng cường hơn, do vậy đã mua thêm tàu của Nga, mua máy bay Su 30 để có thể bay xa hơn ra được khu vực Trường Sa…Đại tá Trần Liêm
Chiến đấu cơ hiện đại loại SU 30-MK2 của Nga-Source Xairforce.net |
Đây là vấn đề bức xúc, chủ trương hiện nay của Nhà nước cũng là tăng cường lực lượng vũ trang, đặc biệt nhất là hải quân và phòng không không quân. Tất nhiên là để chống tình trạng hải tặc và tranh chấp trên biển thì Việt Nam phải sẵn sàng có lực lượng để đối phó. Bên Trung Quốc hiện nay vẫn đang tăng cường lực lượng, Philippines cũng vậy do có tranh chấp trên Biển Đông”
Hà Lan có công nghệ đóng tàu tiên tiến, các nước đã mua tàu hộ tống lớp Sigma bao gồm Indonesia và Ma-rốc. Không có chi tiết về việc Việt Nam chọn loại tàu hộ tống Sigma nào vì có tới 4 loại khác nhau. Nhưng theo tài liệu quân sự, tàu hộ tống lớp Sigma loại thông thường có chiều dài gần 91 mét, chiều rộng 13 mét độ mớn nước 3,60 mét và lượng giãn nước tiêu chuẩn 1.692 tấn. Tàu có vận tốc tối đa 28 hải lý/giờ, nếu chạy với vận tốc 18 hải lý giờ tàu có tầm hoạt động tới 3.600 hải lý tức khoảng 6.500 km.
Khả năng tác chiến của tàu hộ tống lớp Sigma cũng khá mạnh, trang bị vũ khí gồm 4 bệ phóng tên lửa chống hạm MM40 Block 2; 2 bệ phóng tên lửa phòng không có điều khiển Mistral, một khẩu pháo 76mm; hai đại bác 20mm cùng nhiều ngư lôi chống tàu ngầm.
chủ trương hiện nay của Nhà nước cũng là tăng cường lực lượng vũ trang, đặc biệt nhất là hải quân và phòng không không quân. Tất nhiên là để chống tình trạng hải tặc và tranh chấp trên biển thì Việt Nam phải sẵn sàng có lực lượng để đối phó.
Đại tá Trần Liêm
Tàu ngầm loại kilo 636 Việt Nam mua của Nga. RFA-Screen cap/ hoangsa.org |
Hoạt động bảo vệ biển còn giới hạn
Có thể do khả năng giới hạn và lực lượng mỏng tàu chiến Hải quân Việt Nam ít xuất hiện trên Biển Đông, cũng chưa có trường hợp nào tàu chiến Việt Nam giải cứu tàu cá của ngư dân khi họ bị tàu Trung Quốc bắt giữ trấn lột. Đoạn âm thanh sau đây minh họa thực tế tàu Trung Quốc thống lĩnh Biển Đông trên vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam:“Nó bắn mấy phát súng mình chạy miết… tàu nó lại cản trở không cho mình làm….”
Hoặc như ngư dân Đà Nẵng kể lại là họ ít khi thấy tàu Hải quân Việt Nam xuất hiện trên biển mà chỉ thấy tàu Trung Quốc:
“Thấy tàu của Hải Quân VN đi ở 110 độ kinh đông trở vô 16 độ vĩ Bắc trở xuống chứ còn lên 17 Bắc-111 đông thì không có Việt Nam mình, chỉ có tàu Trung Quốc thôi.”
Thấy tàu của Hải Quân VN đi ở 110 độ kinh đông trở vô 16 độ vĩ Bắc trở xuống chứ còn lên 17 Bắc-111 đông thì không có Việt Nam mình, chỉ có tàu Trung Quốc thôiKhi đưa tin về việc Việt Nam đàm phán mua tàu chiến Hà Lan, báo chí cũng đề cập tới việc Việt Nam tiến tới tự sản xuất tàu chiến để tiết giảm chi phí và sự lệ thuộc nhà cung cấp nước ngoài. Đại tá Trần Liêm nguyên Phó tư lệnh quân chủng phòng không không quân nhận định:
Ngư dân Việt Nam
tàu hộ tống lớp Gepard. Source military.net |
Báo Tuổi Trẻ Online hồi đầu tháng 10 đưa tin, lần đầu tiên Quân đội Việt Nam đã sản xuất được tàu chiến chi phí 1 triệu USD thay vì mua của Nga là hàng chục triệu USD. Nhà máy đóng tàu Hồng Hà tức Z173 ở Hải Phòng đã thành công trong việc đóng mới một tàu chiến loại TT400TP. Đây là lớp tàu pháo có vũ khí điều khiển tự động, tàu trọng tải 400 tấn chiều dài 54 mét chiều rộng 9 mét tốc độ tối đa 32 hải lý/giờ. Tàu có thể hoạt động liên tục 30 ngày đêm trên biển với hải trình 2.500 hải lý. Tàu pháo TT400TP có thể đảm nhiệm 4 nhiệm vụ trên biển là tấn công tiêu diệt tàu đổ bộ và tàu hộ tống của địch, bảo vệ căn cứ hải quân, bảo vệ tàu dân sự trên biển và trinh sát chiến thuật cảnh giới mặt nước.
Đúng là quân đội Việt Nam muốn tự túc, nhưng khả năng công nghiệp còn thấp quá, hiện đang từng bước xây dựng lên. Nói chung cả cuộc chiến tranh trước đây đều nhờ cậy vũ khí của Nga và Trung Quốc. Vũ khí bộ binh cỡ nhỏ phần lớn của Trung Quốc, hạng nặng như máy bay tên lửa chủ yếu của Nga.
Tàu pháo TT400TP do Việt Nam sản xuất
|
Đây là một bước ngoặt lịch sử về công nghệ đóng tàu quân sự của Việt Nam. Hiện nay Việt Nam còn rất nhiều khí tài quân sự có từ thời chiến tranh cần được phục hồi. Cựu Đại tá Trần Liêm phát biểu:
“ Đúng là quân đội Việt Nam muốn tự túc, nhưng khả năng công nghiệp còn thấp quá, hiện đang từng bước xây dựng lên. Nói chung cả cuộc chiến tranh trước đây đều nhờ cậy vũ khí của Nga và Trung Quốc. Vũ khí bộ binh cỡ nhỏ phần lớn của Trung Quốc, hạng nặng như máy bay tên lửa chủ yếu của Nga. Hiện nay có khó khăn về phụ tùng thay thế, có thể đã có ký kết với Ấn Độ để nước này trợ giúp sửa chữa những loại vũ khí còn lại sau chiến tranh.”
Cùng với việc báo chí đưa tin Việt Nam đàm phán để đặt mua 4 tàu Hộ tống lớp Sigma của Hà Lan, hôm 18/10 Thông tấn xã Interfax đưa tin Nga vừa giao hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển Bastion thứ hai cho Việt Nam theo hợp đồng ký kết hồi 2005. Hồi giữa năm ngoái Bộ Quốc phòng Việt Nam đã tiếp nhận hệ thống Bastion thứ nhất, có tin nói Việt Nam sẽ đặt hàng thêm loại vũ khí hiện đại này. Một tổ hợp Bastion có thể bảo vệ một vùng bờ biển trải dài 600 km với các tên lửa có tầm hoạt động từ 120km tới 300km. Được biết Tân Hoa Xã của Trung Quốc nhận định là Việt Nam sẽ bố trí các tổ hợp tên lửa Bastion tại bờ biển miền Trung để đối phó với mối đe dọa trên Biển Nam Trung Hoa tức Biển Đông Việt Nam.
Việt Nam đang gấp rút hiện đại hóa Hải quân và Không quân và khả năng của Việt Nam chỉ là tự vệ chứ không có mục đích tấn công như lời các lãnh đạo Việt Nam tuyên bố.
Thứ Năm, 20 tháng 10, 2011
Phi Cơ không người lái
PHI CƠ KHÔNG NGƯỜI LÁI Hoa Kỳ dùng phi cơ không người lái vào việc tuần tra, thám sát và thu thập tin tức. Phi cơ không người lái Hoa Kỳ đã tuần tra biên giới Afghanistan và Pakistan, biên giới Hoa Kỳ và Mexico, vùng ven biển Somalia để phát hiện hải tặc, và mới đây, phi cơ không người lái được yểm trợ cho lực lượng NATO trong chiến dịch Odyssey Dawn thực hiện vùng cấm bay trên bầu trời Libya của Gaddafi. Hệ thống phi cơ không người lái (Unmanned Aircraft System = UAS) Sở dĩ gọi là hệ thống (System) là vì một chuyến bay được thực hiện bởi những hệ thống bao gồm những con người và kỹ thuật rất phức tạp, có liên quan đến việc thiết kế chiếc phi cơ, đến trạm điều khiển từ xa trên mặt đất, và hệ thống vệ tinh quân sự trên bầu trời. Những hệ thống nối kết chặt chẽ qua lại, giữa 3 vị trí nói trên. Phi cơ trên bầu trời của khu vực quan sát, trạm điều khiển từ xa trên mặt đất, vệ tinh quân sự trên trời. Hệ thống phi cơ không người lái (Unmanned Aircraft System - UAS hay là Unmanned Aerial Vehicle - UAV), còn gọi là Drone. Hệ thống nầy không có người lái ngồi trên phi cơ, nhưng phải có một phi công (Pilot) ngồi tại trạm điều khiển từ xa trên mặt đất. Xăng là nhiên liệu của Predator. MQ-1 Predator … MQ-9 Reaper Tên đầy đủ là General Atomics MQ-1 Predator. General Atomics là tên công ty sản xuất, cũng giống như Boeing 747, MiG-25, Lockheed F-22 Raptor… MQ-1 Predator trước tiên được Không Quân Hoa Kỳ và CIA xử dụng để dọ thám từ xa. Được thiết kế nhiều máy ảnh và nhiểu bộ cảm ứng (Sensor) để thu thập và gởi về màn hình những hình ảnh đầy đủ màu sắc và cử động, di động. Về sau, những cải tiến liên tục cho thích hợp với nhu cầu chiến trường, được trang bị 2 hỏa tiển nhỏ AGM-114 Hellfire (thuộc loại chống xe tăng) và đại liên. AGM = Air-to-Ground Missile, là hỏa tiển không đối đất. Cũng có thể viết: ASM = Air-to-Surface Missile. Từ năm 1995, Predator được xử dụng ở các chiến trường Bosnia, Iraq, Yemen, Afghanistan và ở Libya ngày 21-4-2011. Động cơ nhiên liệu xăng, được đẩy bằng cánh quạt. Phi cơ bay tới mục tiêu cách xa 740 Km rồi trở về trong thời gian bay là 14 giờ. Việc điều khiển và các bộ phận cảm ứng Năm 1980, Bộ Quốc Phòng và CIA thí nghiệm loại phi cơ nầy với những chiếc nhỏ, nhẹ. Năm 1990, CIA thích thú với loại cải tiến mang tên Amber. CIA đặt mua 5 chiếc cải tiến tên là Gnat. Đặc điểm là tiếng động rất nhỏ, giống như tiếng máy cắt cỏ trên không trung. Thiết kế sau cùng mang tên Predator, được sản xuất 12 chiếc với 3 trạm điều khiển trên mặt đất. (Ground Control Station) Năm 2001, Hoa Kỳ có 60 chiếc Predator và cho biết đã bị mất 20 chiếc trong các cuộc hành quân, bao gồm 1 chiếc bị địch bắn hạ, nhưng đa số vì thời tiết quá lạnh. Một bộ phận làm tan băng được gắn vào để cải tiến. Predator được nâng cấp cuối cùng mang tên là MQ-9 Reaper. Hệ thống điều khiển và các bộ phận cảm ứng Ở mặt trận Yugoslavia, một phi công của chiếc Predator ngồi chung với nhiều chuyên viên trên một chiếc xe Van đậu sát phi trường mà chiếc Predator sẽ cất cánh và trở về đáp xuống. Điều khiển cho chiếc phi cơ cất cánh Những số liệu được chuyển trực tiếp, từ chiếc xe Van đến hệ thống vệ tinh quân sự trên trời bằng kênh nối kết, và từ vệ tinh, những lịnh điều khiển được truyền đến chiếc phi cơ để cất cánh và bay đến mục tiêu. Tất cả gồm 2,000 tín hiệu liên lạc nối kết nhau chặt chẽ, và hoàn tòan chính xác, thì phi cơ mới cất cánh được. Từ chiếc phi cơ, tất cả mọi hình ảnh nằm trong vùng quan sát được chuyển về trạm điều khiển để phi công ở đó nhận xét và ra những lịnh để phi cơ thi hành, như bắn vào mục tiêu, hoặc bay trở về. Cơ quan CIA đề nghị những chuyến bay không người lái được điều khiển từ trung tâm của CIA ở Langley, Virginia. Mặc dù không có người lái ngồi trên phi cơ, nhưng mỗi chuyến bay phải có phi công ngồi tại trạm điều khiển từ xa. Phi cơ được gắn dụng cụ để xác định vị trí và tọa độ mục tiêu, một máy chụp hình (Camera) màu, một Camera TV, một camera hồng ngoại tuyến, cho nên nó có thể nhận thấy mục tiêu xuyên qua màn khói, mây che và sương mù. Hình ảnh nhận được với đầy đủ màu sắc và cử động, di chuyển…Hình ảnh được thu nhận liên tục trong khu vực thám sát ở những tọa độ khác nhau. Sau nầy, chiếc Predator được gắn thêm hệ thống Laser để có thể liên lạc được với phi công của những máy bay trên cùng một khu vực của bầu trời. Hệ thống Laser đồng thời cũng được dùng để hướng dẫn hỏa tiển đi đến đúng mục tiêu. Thảo ráp Predator Một chiếc Predator có thể được tháo ra làm 6 phần rời, bỏ vào một container. Điều nầy cho phép việc triển khai nhanh chóng, đến khắp các nơi trên địa cầu bằng phi cơ vận tải hoặc bằng tàu biển. Bộ phận lớn nhất là trạm điều khiển từ xa, được thiết kế cho vừa vặn, để chiếc C-130 Hercule chở đi khắp nơi. Băng Tần Sóng nối kết với 24 vệ tinh quân sự trên bầu trời, được phóng đi nhờ một Ănten Chảo đường kính 6.1 mét. Đường của sân bay dành cho Predator Phi cơ nầy cần một đường băng rộng 40m, dài 1,500 m trên một bề mặt trống trải, không có chướng ngại vật làm lệch hướng đi, hoặc ngăn chận làn sóng điện từ trạm điều khiển trên mặt đất lên vệ tinh, rồi từ vệ tinh xuống phi cơ. Tháng 4 năm 2010, một tài liệu tiết lộ tổng số giờ phi cơ không người lái đã thực hiện là trên một triệu giờ. Chuyến bay dài nhất trên bầu trời là 40 giờ 5 phút. Năm 2009, Không Quân HK có 195 chiếc Predator MQ-1 và 28 chiếc nâng cấp MQ-9 Reaper. Tai nạn và bị bắn rơi Tháng 3 năm 2009, một báo cáo cho biết Hoa Kỳ đã mất 70 chiếc Predator, trong đó 55 chiếc rơi và phát nổ vì trục trặc máy móc và bay lạc mất. 4 chiếc bị bắn rơi ở chiến trường Bosnia, Kosovo. Tại chiến trường Iraq, rơi 11 chiếc. Tháng 3 năm 2011 vừa qua, Không Quân Hoa Kỳ tiếp nhận lần cuối cùng những chiếc Predator. Sau đó, không còn sản xuất nữa. Tổ chức những đội bay Predator Tháng 4 năm 1996, Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ đã chọn Không Quân để điều hành hệ thống phi cơ không người lái Predator. Nhiều đội bay được thành lập tại những căn cứ Không Quân Hoa Kỳ. Trên chiến trường Afghanistan, 10 trong 15 chiếc Predator, được đánh giá là thành công xuất sắc. Hai chiếc Predator xác định vị trí của một người cao, ốm, mặc quần áo trắng tại khu nhà của Bin-Laden ở Tarnak, bên ngoài Kandahar. Hình dáng đó được xác nhận là Osama Bin-Laden. Ngày 4-9-2001, Tổng thống Bush chấp thuận cho dùng Predator tìm diệt Bin-Laden, nhưng nước chủ nhà của phi trường là Uzbekistan không cho phép Predator trang bị hỏa tiển. Predator bi MIG-25 bắn hạ Ngày 23-12-2002, chiếc MIG-25 của Iraq đã bắn hạ chiếc Predator. Sự việc như sau. Chiếc Predator được trang bị hỏa tiển không đối không AIM-92, được dùng làm mổi, để nhử cho chiếc MIG-25 cất cánh, sau đó, Predator chạy trốn, để MIG ở lại làm bia bị bắn hạ. Nhưng trong trường hợp đó, không biết vì trở ngại gì, mà chiếc Predator lại không bỏ chạy đi theo kế hoạch, và nó phóng một hỏa tiển tầm nhiệt vào chiếc MIG-25. Nhưng hỏa tiển tầm nhiệt lại đuổi theo một hỏa tiển do chiếc MIG phóng ra, cả hai hỏa tiễn cùng nổ, và chiếc MIG-25 bắn hạ chiếc Predator. Đặc tính kỹ thuật của Predator Phi hành đoàn: không Chiều dài: 8.22 m Sải cánh: 16.84m Cao: 2,1m Nặng: 512 kg (không có vũ khí) Sức nặng có vũ khí: 1020 kg Động cơ: Một máy nổ 4 xy lanh, 115 mã lực (horse power) Vũ khí 2 Hỏa tiễn AGM-114 Hellfire (AGM = Air-to-Ground Missile) 4 Hỏa tiễn AAM-92 Stinger (AAM = Air-to-Air Missile) 6 hỏa tiển Griffin (Loại không đối đất) Hỏa tiễn AGM-114 Hellfire AGM là Air-to-Ground Missile, còn được gọi là ASM = Air-to-Surface Missile. Chủ yếu là trang bị cho trực thăng chiến đấu. Nặng: 47 kg Tầm xa: 8 km Năm 2007, Hoa Kỳ có tổng số 21,000 AGM-114, mỗi quả giá 68,000 USDollars và được trang bị trên trực thăng Apache, Cobra, Kiowa và Predator. Hỏa tiễn AIM-92 Stinger hay còn gọi là AAM-92 Stinger Dài: 1.52 m Đường kính: 70 mm (2.8 in) Nặng 16 kg Đầu nổ: 3 kg Tốc độ: 750 mét/giây Tầm xa: 4.5 km Tiền hoa Griffin Là hỏa tiển không đối không, trang bị cho Predator: Đường kính: 5.5. in Nặng: 20.4 kg Length: 42 Đầu không có: 13 pounds. Tóm lại, phi cơ không người lái MQ-1 Predator và MQ-9 Reaper là loại phi cơ nhỏ, nhẹ, trang bị hỏa tiển cũng nhỏ, nhẹ, cho nên hỏa lực rất yếu so với vũ khí của các chiến đấu cơ khác. Như vậy, loại phi cơ nầy có giá trị thám thính nhiều hơn hỏa lực công phá. Hoa Kỳ gởi phi cơ thám thính đến Libya mà không gởi chiến đấu cơ có vũ khí mạnh, thì hiệu quả rất hạn chế. Thật ra, ngoài chiếc Predator, Hoa Kỳ còn những loại phi cơ không người lái có vũ khí mạnh hơn nhiều. Có lẽ đợi tới khi chiến tranh leo thang, thì mới mang ra xử dụng. Đó là loại Boeing X-45 và Northrop Grumman X-47. Boeing X-45 X-45 là phi cơ chiến đấu không người lái do công ty Boeing thiết kế và sản xuất theo hợp đồng của Hải Quân. Bên Không Quân cũng có loại phi cơ không người lái giống như X-45, nhưng do công ty Northrop Grumman sản xuất, với cái tên X-47. Ngày 18-4-2004, thử nghiệm X-45 lần đầu tiên thành công tại căn cứ Không Quân Edwards, nó phóng hỏa tiển 250 lbs chính xác vào mục tiêu. Ngày 4-2-2005, trong lần bay thứ 50, hai chiếc X-45 báo động có mục tiêu xuât hiện, hai chiếc tự động xác định xem chiếc nào sẽ dùng vũ khí tấn công, kế đó một chiếc bay ra khỏi khu vực chiến đấu, và người phi công ở trạm điều khiển từ xa, ra lịnh tấn công. Đặc biệt là hai chiếc X-45 phối hợp hoạt động với nhau như là một nhóm. Năm 2010, hảng Boeing thiết kế cho chiếc X-45 được thực hiện tiếp liệu trên không. Đặc tính của X-45 Phi công: không có Dài: 8.08m Sải cánh: 10.3m Cao: 2.14m Trọng lượng 3,630 kg không có vũ khí Động cơ 1 máy GA-100 Turbofan Tốc độ tối đa: 919 km/giờ Tầm hoạt động xa: 2,405 km. Vũ khí 8 bệ phóng hỏa tiển, mỗi bên 4 bệ. Bom JDM loại đường kính nhỏ. Northrop Grumman X-47 Northrop Grumman X-47 là loại phi cơ chiến đấu không người lái, do công ty Northrop Grumman thiết kế và sản xuất theo hợp đồng của Không Quân. Công dụng cũng giống như X-45 của Hải Quân. Hai bên có 2 chương trình khác nhau. X-47 có hình dáng giống như đầu của mũi tên hình tam giác. Đặc tính X-47 Phi công: không Dài: 5.95m Sải cánh: 5.94m Cao: 1.86m Trọng lượng không có vũ khí: 1,740 kg Trọng lượng có vũ khí: 2,212 kg. Động cơ 1 máy Turbofan Vận tốc tối đa: dưới âm thanh. Tầm hoạt động xa: 2,778 km. Vũ khí 2 bệ phóng hỏa tiển, mỗi bệ chỉ có một quả 500 pounds (225 kg) X-47 được cải tiến và nâng cấp thành X-47A, X-47B, X-47C Riêng X-47C, to hơn. Sải cánh 52.4 m, Trọng lượng có vũ khí là 4,500 kg |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)